Anh
vẫn cầm lấy
tay cô, kéo
cô nhẹ nhàng
đi ra cổng,
bước vào con ngõ dài thăm
thẳm chạy ra đến tận
con đường nằm bên bờ sông
Thơm. Con ngõ từng chỗ sáng
tối mông lung huyền hoặc dưới
áng trăng. Hai bên, khi là
mấy cây sầu
đông lá nhỏ,
nơi là hàng
dâm bụt xén
thẳng tắp, chỗ là rặng
tre kĩu kịt
trùm phủ khoảng không trên
mặt đường. Hoài cầm tay Siam đi
qua những vùng sáng, tối đó,
cảm thấy mình lướt êm
đi trong trăng, trong đêm.
Khuôn mặt cô gái bên
cạnh anh dù trong bóng
tối mờ vẫn
sáng rỡ một
mầu trắng lạ lùng. Và
bàn tay cô
vẫn mát và
mềm mại chuyền
qua người anh một cảm giác
yên bình thanh thản. Hai người hầu như
im lặng đi
bên nhau cho đến cuối
ngõ. Không gian vỡ oà
ra trước mắt họ. Trăng
lồng lộng trên cao, tứ
bề. Dòng sông là một
giải ngời sáng lao xao
trăng nước từ thượng nguồn
về đến trung
tâm thành phố, lượn nhẹ
một đường cong mềm mại
ngang trước con ngõ. Bên kia bờ
là khối đen
im lìm cây
lá của các
xóm làng, bên này bờ,
dưới chân hai người, con đường nhựa phủ
ánh trăng viền một đường
bạc lấp lánh
dọc theo dòng sông.
………………….
Hoài
đi nhanh ra cửa, bỏ
Hoài Nhân chưng hửng ngồi lại
một mình. Anh không phải khó
chịu, ác cảm với Hoài Nhân
nhưng sáng nay anh muốn một
mình. Anh bỏ giảng đường đi
ra bờ sông,
ngồi xuống bãi cỏ để
nhìn dòng nước Sông Thơm
dịu dàng. Siam đã là dòng
sông xanh mát chảy vào
trong tâm hồn anh cát
khô sa mạc.
………………………….
Bậc thềm này cao dễ
đến hai mươi
thước so với mặt sông phía
trước, dưới chân đồi. Trong đêm khuya, trăng
rằm lồng lộng, nhìn ngút
mắt về hai
phía thượng nguồn và hạ
lưu, dòng sông ngời ánh
bạc như dài
rộng đến vô cùng, vừa
hư ảo, huyền
bí, vừa hùng
tráng lạ lùng. Cây bông
sứ già lay động những chiếc
lá thuôn dài điểm những
vệt sáng trên khuôn mặt
trắng ngời của Siam như những
chiếc hoa sứ trắng muốt
trên cành và rơi rụng
đầy quanh chỗ ngồi của
hai người. Một mùi thơm
dịu dàng lan tỏa trong
không gian. Sự hòa điệu
tuyệt vời của đêm trăng,
dòng sông, ngôi tháp, mầu
sắc và hương
hoa sứ làm
Hoài và Siam như muốn lịm đi,
hòa tan vào trong khung cảnh.
…………………
Hoài
kéo tay Siam đứng dậy. Cô
miễn cưỡng đôi chút rồi
cũng đứng lên. Hoài dìu cô
đi chầm chậm
xuống từng bậc thềm, băng
qua con đường rồi nhảy qua các bậc
đá xuống mép nước. Sóng
vỗ miên man vào các phiến
đá lớn đã
bị bào mòn
qua năm tháng. Hai người ngồi trên
một phiến đá phẳng thòng
chân xuống nước. Hoài cúi xuống vốc nước
rửa mặt và
Siam cũng làm theo. Nước mát
quá làm Hoài không muốn lau
mặt và cũng
ngăn không cho Siam lau. Anh áp hai bàn
tay còn ướt
của mình vào má cô
và nhìn cô
chăm chú. Đôi mắt cô
hơi to, lòng đen thật đen
và lòng trắng
phớt xanh phủ nhẹ một
làn nước lấp lánh ánh
trăng. Hàng mi dài mỗi lần
cô chớp mắt
như khép lại rồi hé
ra cả một
cõi trời lung linh. Khi cô mỉm
cười, hàm răng trắng muốt
làm sáng bừng cả khuôn
mặt và chiếc
răng khểnh thì thầm một
lời mời mọc.
Chiếc mũi không cao nhưng
thanh tú rất hài hòa
với khuôn mặt và nụ
cười. Khuôn mặt trắng muốt
của cô càng
ngời lên trong mái tóc
dài đen huyền
xỏa xuống quá vai.
………………………..
Từ nhà Siam ra, Hoài thẫn thờ
đạp xe dọc
theo bờ sông.
Cảm giác cô đơn thấm
đẫm tâm hồn
anh. Sao lúc nào anh cũng
cảm thấy mình chỉ có
một mình dù anh đã
có người yêu và được
đền đáp. Anh khao khát cái gì?
Anh ích kỷ quá chăng? Anh đã bất công
đối với Siam. Anh đã trách móc
cô vô lý.
Làm sao lúc
nào Siam cũng phải là của
riêng anh, chỉ một mình
anh thôi. Nhưng rõ ràng
anh không chịu được nhìn
Siam vui vẻ giữa người khác.
Thà anh không
nhìn cảnh đó. Thà anh
cô đơn đạp
xe đi dọc
dòng sông này.
Dòng sông rực rỡ trong
ánh sáng ban mai. Những đợt
sóng lăn tăn lấp loáng
ánh bạc. Vài chiếc thuyền
xuôi ngược rẽ nước nhưng
không hề khuấy động được
dòng sông êm ả. Sự bình
lặng của dòng sông như
một sức mạnh
trầm hùng không gì lay chuyển
được. Dòng sông là sự
vững chãi lâu bền, là
chỗ dựa cho
tâm hồn anh
từ thuở ấu
thơ.
Thuở bé, từ khi mới
năm, sáu tuổi, Hoài sống với bố mẹ
ở tỉnh khác nhưng mùa hè
nào Hoài cũng về đây thăm
ông bà nội.
Sáng nào ông nội cũng đưa
anh ra sông
tắm và tập
bơi. Anh tập bơi tương đối
dễ dàng. Ban đầu ông nội
để tay dưới
bụng nâng nhẹ anh lên,
hướng dẫn cách khoát tay,
đạp chân. Sau vài lần như
thế, ông đưa anh ra
chỗ sâu rồi
thình lình bỏ anh nhoai
vào bờ. Anh chìm xuống, sặc
nước mấy lần, ngoi lên
cuống cuồng kêu cứu nhưng
ông vẫn không
ra. Cuối cùng anh cũng
vào được bờ sau khi
đập tay chân
loạn xạ và
uống nước no bụng. Thế là
anh biết bơi.
Khi
đã bơi được
khá hơn, anh và mấy
bạn trong xóm rủ nhau
chặt mấy cây chuối làm
phao để bơi
qua bên kia sông. Đó là lần
chinh phục đầu tiên trong
đời làm anh
vô cùng kiêu
hãnh. Sau mấy lần bơi qua sông
bằng phao cây chuối, tụi
anh đã mạo
hiểm bỏ phao
bơi tay không.
Dòng sông rộng gần một
cây số nên
bơi qua sông hoàn toàn là
việc không đơn giản nhưng
tụi anh đã
làm được. Đó là lần
chinh phục thứ hai và
anh nghĩ rằng mình có
thể làm được
mọi chuyện nếu mình có
ý chí. Từ đó anh tha
hồ tung hoành trên dòng sông.
Tụi anh tổ
chức những cuộc thi bơi
vượt sông rất hào hứng,
có khi bơi
qua lại đến hai vòng. Lớn
lên một chút,
tụi anh bắt
đầu bơi đi
thám hiểm các bến bên
kia sông. Bờ bên kia, các nhà
có vườn ra
tận bờ sông
và mỗi vườn
đều có bến
riêng để tắm giặt. Các anh
đã cả gan
chòng ghẹo các cô gái
bên đó khi
các cô xuống
bến một mình.
Thỉnh thoảng tụi anh cũng
lén leo lên
bờ, vào vườn
để hái trái
cây, bị chủ
nhà rượt đuổi phải phóng
xuống sông bơi bán sống
bán chết.
Đôi lúc không có bạn,
anh đi bơi
một mình. Anh bơi ra giữa
dòng, nằm ngửa, đập tay
chân nhẹ nhàng để khỏi
chìm và nhìn
lên bầu trời
trong xanh không một gợn
mây. Cảm giác bềnh bồng
trên sóng nước, một mình
giữa dòng sông làm anh
cảm thấy một nỗi cô
đơn êm ả. Dòng sông nâng
đỡ anh như
một người mẹ dịu dàng.
Anh không hề sợ hãi khi
nhớ đến lời
dọa của ông
nội nói sông
có "ma gia", năm nào cũng
bắt một người.
Anh cũng không lo lắng khi lướt
êm trên những
khoảng sông đầy rong rêu,
thực sự là
mối nguy hiểm khi mắc
chân vào những sợi mềm
nhơn nhớt, điều có thể
làm một tay
bơi giỏi phải chìm xuống
đáy nước. Đã có vài
trường hợp như thế nhưng
anh không quan tâm lắm.
Anh tin cậy vào dòng sông và
tin cậy vào sức mình. Dòng
sông với anh là người
mẹ, người bạn chứ không
phải là kẻ
xa lạ, dứt khoát không phải
là kẻ thù.
Hoài
miên man nghĩ về dòng sông
khi đạp xe
song hành với nó về phía
phố. Chợt anh thấy một
đám đông tụ tập ồn
ào bên bờ
sông gần Cầu Trắng. Anh tò mò đến
gần, dựng xe đạp vào
một gốc cây
rồi len xuống
xem.
Dưới sông, một xác chết
đang bập bềnh tấp vào
bờ. Xác chết
của một người
đàn ông chỉ
mặc một chiếc
quần đùi đen. Thân thể xác
chết trắng lốp như một
con heo cạo lông. Cái xác
to gấp rưỡi người thường, bụng,
tay, chân, ngực đều căng
phồng lên như được bơm
hơi bên trong.
Một vài chỗ,
cả trên mặt,
đã bị cá
rỉa thành từng lỗ lam nham
vì thịt tua
ra.
Nhiều tiếng nói nổi lên
trong đám đông:
-
Tội nghiệp! Chắc chết đã
mấy ngày rồi mới chương
lên như thế.
-
Gia đình, thân nhân biết được
chắc đau khổ lắm.
-
Ai có gan kéo lên bờ
đi. Tội nghiệp
quá.
-
Tội nghiệp chi! Một giọng tức
giận vang lên. Việt Cộng đó. Mấy
hôm trước đánh nhau trên
kia nghe nói Việt Cộng chết nhiều
lắm. Nhiều đứa bị bắn
lúc vượt sông. Cứ để
đó cho cá
rỉa.
Một giọng khác:
-
Răng mà độc ác rứa. Việt Cộng
hay ai chết cũng là người thôi.
Người chết nào không đáng
thương xót.
Một giọng khác nữa:
-
Thôi đừng ở đó cãi nhau.
Tìm cách kéo người ta lên
rồi đi báo
cho cảnh sát. Để xác
chết dưới sông rữa lây
bệnh cả thành
phố bây giờ.
Dưới sông, xác chết vẫn
bập bềnh tại chỗ. Hai hốc
mắt bị cá
rỉa thành hai hố đen
ngòm nhìn xoáy lên đám
đông. Hoài nổi da gà và cảm
thấy buồn nôn. Anh vội vã
bỏ lên bờ
lấy xe đạp
về nhà.
Chao
ôi, dòng sông êm ả của
anh cũng tàn ác thế
sao. Dòng sông là người
mẹ dịu hiền,
người bạn tin cậy, sự thanh
bình của đời anh sao
lại mang cái chết kinh
hoàng đến cho người khác.
Không, không phải tại dòng
sông. Đó là tội ác
của con người. Chính con người giết con người, nào phải dòng
sông. Dòng sông bị mắc
tiếng oan. Người chết là
Việt Cộng? Việt Cộng là ai? Người Việt theo Cộng sản.
Cộng sản là gì? Cộng
sản là kẻ
thù của quốc
gia như người
ta vẫn tuyên truyền hằng ngày.
Thực ra, những năm qua, ở tuổi học trò
trung học vô tư, anh
chưa nghĩ gì nhiều về
vấn đề này.
Anh chỉ biết đất nước đã
bị chia cắt làm hai miền,
mỗi bên theo
một chủ thuyết
đối nghịch nhau và hai
miền đang ở trong cuộc chiến
tương tàn. Miền Nam là thế
giới tự do. Miền Bắc là Cộng
sản vô thần.
Có phải hai
miền không thể chấp nhận
nhau và nhất
định phải tiêu diệt nhau?
Vậy thì đâu
là dân tộc
Việt Nam, con người Việt Nam? Người
nằm chết dưới sông kia nhất
định là người
Việt Nam. Nhất định người đó có
gia đình, người thân, có
ước mơ về
hạnh phúc. Người đó đã
dám chiến đấu và chấp
nhận cái chết. Người đó
đã bị người
khác giết chết. Và người
đó chắc cũng
đã từng giết
chết người khác. Người ta hủy hoại lẫn
nhau để đạt
được được điều gì? Chỉ
tội nghiệp cho dòng sông
của anh bị
mang tiếng oan. Dòng sông
chỉ là chứng
nhân, là nơi ghi dấu
tội ác của
con người thôi. Dòng sông của
anh không bao giờ bị vẩn
đục, ô uế, ngay cả bởi
xác người. Dòng sông của
anh có thể
tẩy rửa tất
cả vì nó
có khả năng
vô nhiễm. Anh vẫn có thể
đắm mình trong nó để
quên đi những
phiền muộn trong cuộc đời.
Có thể nào
như thế được
chăng?
………………………………
Hoài
đau đớn trước
sự bất lực
của mình. Anh mệt mỏi bỏ
đi. Anh đi theo con ngõ. Ra đường lớn. Đến
bến sông trước ngôi tháp
cổ. Một mình.
Dưới ánh trăng lồng lộng
và lạnh lẽo
suốt xương da.
Hoài
ngồi ở đó cho đến tận
hừng đông. Anh chỉ là một
tượng đá cô đơn. Suốt
đời cô đơn.
Đó là định
mệnh của anh.
………………………….
Thuyền ra giữa dòng sông
đêm. Con sông xanh thẫm, êm
và lặng như
một mặt hồ.
Mặt nước lấp lánh ánh
trăng khoác nhẹ một làn
sương khói mơ hồ che
khuất dòng chảy ngầm lặng
im bên dưới
không thôi hướng về phía
biển. Khoảng này, con sông Thơm
trữ tình lãng mạn đang
đi ngang qua giữa Thành phố thơ trầm mặc.
Trăng soi chếch vào khoang, nơi
năm chàng sinh viên đang
nằm ngồi ngổn ngang với
những ly rượu sóng sánh
đã vơi đầy
nhiều lượt. Mặt nước nâng
ánh trăng rung rinh xao động
quấn quýt quanh mạn thuyền.
…
Hoài
nhìn ra vùng
trời nước đã nhòa đi
trong ánh trăng mờ, nói
như độc thoại,
khi quay lại, Vỹ đã ngủ
tự lúc nào,
đầu vẫn gục
xuống khoang thuyền. Hoài kéo chăn đắp cho
bạn và thẫn
thờ nhìn xuống nước. Nước
vẫn lặng lẽ xuôi dòng
và âm vang nhè nhẹ trong
tiếng vỗ mạn thuyền. Bên
cạnh, những người kia cũng đã say ngủ. Riêng
Trình, trong cơn mê vẫn
còn lảm nhảm
gọi trăng, nước và Thảo.
……………………………
Nhóm Hoài bước vào lớp của
Siam khi đã gần cuối buổi
học. Đã hai
tháng rồi từ sau buổi
đoạn tình anh không gặp
cô. Cô ngồi
ở bàn gần cuối lớp. Có
cái gì thật
khó tả trong
cái nhìn của cô: đau
đớn, oán trách, phiền muộn.
Hay tất cả các thứ đó
trộn lẫn. Hoài nhìn cô chăm
chú suốt thời gian thằng
bạn anh giới
thiệu về tờ báo. Khi hắn
chấm dứt, anh lẳng lặng
cầm một tờ
báo đi thẳng
đến bàn Siam, đặt trước mặt
cô trước sự ngạc nhiên
của hai cô
bạn ngồi hai bên. Anh nói
nhẹ nhàng:
-
Siam, hãy nhận những gì sau
cuối anh còn có thể
gởi đến cho
em.
Nói
xong anh im lặng bước
ra khỏi lớp
học để mặc
các bạn tiếp
tục phát hành báo. Anh lại
đi ra phía
bờ sông, đốt một điếu
thuốc ngồi nhìn dòng nước
vẫn không thôi hướng về
phía biển. Dù thế nào
chăng nữa, tình yêu của
anh đối với
Siam vẫn như dòng nước này,
không bao giờ khô cạn và
không bao giờ ngưng nghỉ.
…………………………..
Hoài
không nói gì. Anh lặng lẽ
đạp xe lên
dốc. Đến một ngả ba,
hai người chia tay nhau sau
khi hẹn giờ
gặp nhau ngày mai. Hoài đạp xe chầm
chậm đến công viên gần
bờ sông. Anh tựa xe đạp
vào một gốc
cây và ngồi
xuống bãi cỏ. Lòng anh
hoang mang. Mặt nước phía
trước lấp loáng ánh sáng.
Ý tưởng trong đầu anh rõ
dần. Buổi nói chuyện vừa
rồi chứng tỏ Lãnh Tụ
Tối Cao quả thật độc tài.
Độc tài có
cần thiết không? Nếu độc
tài sai lầm,
hậu quả bi thảm sẽ không
lường được. Lãnh tụ có
quả thực sáng suốt hoàn
toàn như ông tin tưởng? Hoàn cảnh hiện tại
không cho Hoài tin như thế. Anh không
đồng ý nhiều điểm trong chủ
trương của Lãnh tụ. Hiện
tình đang bế tắc, chưa
tìm được lối thoát. Ngày
mai sẽ ra
sao? Ít ra
anh phải được bày tỏ
những cảm nghĩ. Sự đóng
góp nào cũng
cần thiết trong lúc này.
Lãnh tụ đã
cự tuyệt mọi sáng kiến
chỉ vì ông
tin mình đúng khi chưa chịu
nghe người khác. Vấn đề
đã quá rõ
ràng và anh
thừa sáng suốt để nhận
định. Tại sao Lãnh tụ
có thể nghĩ
như thế được?
Vì những hậu ý nào, những
khó khăn nào không thể
nói ra? Rồi
sao. Các anh, những người trẻ
sẽ đơn phương
hành động. Mọi sự sẽ
đi đến đâu?
Tương lai bấp bênh nghiệt
ngã.
Hoài
nhắm mắt lại một lúc
rồi mở choàng
ra. Dòng sông trước mặt
chợt biến hình. Dòng sông
xanh êm mà
anh đã đầm
mình tắm mát một thời
thơ ấu. Dòng
sông tuyệt vời ru êm
một thành phố hiền hòa
không còn dáng vẻ cố
hữu nữa. Mặt nước phẳng
yên như nâng
cao lên, im sững. Dòng
nước chảy vô hình thể
chìm sâu bên dưới quằn
quại như một con rắn trườn
mình. Dòng sông tách lànm
hai phần. Và bề mặt
lặng yên phủ lên chiều
sâu cuồng phẫn, âm thầm.
………………….
Chúng ta đi bộ qua phố ăn
sáng. Chiếc Cầu Trắng đầy
sương mù. Tôi đi trước
một mình. Dòng nước loang
loáng bên dưới như một
sự sống trường
cửu âm thầm.
Thành cầu lạnh vắng. Tôi đi
như đi một
mình trong buổi sớm. Vị
cô đơn thấm
vào từ đầu
mấy ngón tay rã rời
tê buốt.
………………….
Chúng tôi thường gặp nhau
buổi tối những đêm trăng.
Tôi từ nhà
trọ ở phố đạp xe mấy
cây số lên
tìm Siam. Chúng tôi đưa nhau
ra bến đá
bên dòng sông trước ngôi
tháp cổ. Đêm trăng ở đây
thật tuyệt vời. Dòng sông
phẳng lặng uốn mình bên
ngôi tháp cổ kính với
những gác chuông trống và
bia ký chung
quanh. Những bậc thềm cao
ngất. Hai hàng sứ trắng tỏa
hương. Một mặt đường. Một
con dốc nhỏ. Rồi bến sông
với những phiến đá lớn
rập rình sóng nước. Chúng
tôi ngồi trên những phiến
đá, thòng chân xuống nước,
ngắm mặt sông lấp lánh
trăng sao và nói chuyện
thì thầm như hơi thở.
Thật khuya tôi mới đưa
Siam về. Chúng tôi thường hôn
nhau trước khi từ giã.
Hai đứa đứng trong vòng tay
nhau rất lâu. Siam áp đầu
vào ngực tôi, tôi tì
cằm lên vai
Siam, lắng nghe thịt da hai đứa
khăng khít suốt dọc thân
xác. Rồi Siam từ từ ngẩng
mặt lên. Trăng qua cành lá tre đổ
lên khuôn mặt trắng ngần
của Siam những điểm sáng rung động. Môi Siam mấp máy, mắt
mở lớn chờ
đợi. Tôi cúi xuống trên
đôi môi đó
như ngụp lặn vào một
một vùng si mê sáng
láng. Rất lâu rất lâu.
Rồi chúng tôi rời nhau
không nói một tiếng nào.
Siam đứng yên lặng, nhìn theo
cho đến khi
tôi quay lại vẫy tay và
khuất ở cuối ngõ. Tôi mang
theo dư vị
của nụ hôn
trên đường về miên man và
vào trong giấc ngủ nhẹ
nhàng phới phới.
…………………
Đứng giữa đám người này,
tình yêu xanh cao của
anh dành cho cô gái
đã bị hoen
ố vì những câu hỏi dần
dà nảy sinh
trong óc anh. Tại sao
cô đi làm
cho Mỹ, nhất
là làm ở một trại thẩm
vấn? Vì tiền
chăng? Cô nghĩ gì về
anh, về những
người tù trong trại giam
này, những đồng bào của
cô đang bị
đối xử còn
thua những con vật? Cô làm
công việc gì trong trại
giam đó? Bọn cố vấn
Mỹ khả ố đối xử như
thế nào với
một cô gái
xinh đẹp như cô? Cô
đã bằng lòng
cho chúng nó những gì
để đổi lấy
đồng lương và những đồ
hộp, những quà tặng sang trọng
của bọn đế
quốc? Hoài run lên và thấy mình
bừng bừng với những câu
hỏi này. Một niềm phẫn
nộ dâng lên
trong anh như cơn nước
lũ. Hình ảnh cô gái
nhảy múa nhòe nhoẹt trong
óc anh và
hình như bị bôi đen
đi bằng những
vết sơn tàn
bạo. Không, anh không muốn
oán trách cô. Anh chỉ thấy
xót thương thôi. Xót thương
cho bàn chân
trắng hồng xinh đẹp của
cô đang bước
vào vũng lầy bẩn thỉu.
Không phải tội ở cô mà
tội ở bọn đế quốc. Nếu
bọn đế quốc
không đến đây thì cô
chắc chắn vẫn còn tha
thướt trong sân trường, trên
con đường xanh bóng cây dọc
theo bờ sông
sau khi tan học. Và anh
đã có thể
đứng đợi cô nơi bến
đá để cùng
cô đi một
chuyến đò ngang qua con sông rất dịu dàng
của Thành phố Thơ này.
…………….
Tỉnh đã cấp nhà để
làm trụ sở
của hội nhà
văn. Đây là một biệt
thự nằm trên
đường Thông Xanh, con đường
đẹp và yên
tĩnh nhất thành phố Sương
Mù. Biệt thự này cũ kỹ
và có thể
nói là xấu
nhất trong hàng trăm biệt
thự trên con đường này, lại
ở cuối đường, nơi một khu
vực khá hẻo
lánh, xa trung tâm nên việc
đi lại rất
bất tiện. Các biệt thự sang trọng,
tiện nghi đã được dành
làm nơi nghỉ
dưỡng của các ông lớn
hoặc làm khách sạn du lịch.
Sau nhiều tháng anh em nhà
văn đề xuất,
cuối cùng nhân có một
cơ quan sắp
nhập vào một cơ quan
khác theo chủ trương của
trên, trụ sở phải chuyển
đi, nên người
ta lấy trụ sở đó cấp
cho hội nhà
văn. Thế cũng là quan
tâm lắm, không thể đòi
hỏi gì hơn
đối với cái
hội sinh sau đẻ muộn
và phù phiếm
này.
Ưu điểm của biệt thự
này là không
khí yên tĩnh
và khoảng sân rộng trước
nhà. Thật ra đó không
phải là sân
mà là một
khu vườn rộng chỉ có
thông và hoa cỏ dại.
Chủ nhân trước đây xây
dựng ngôi nhà hẳn là
một kẻ muốn
xa lánh cuộc đời nên dù
ngay ở khu vực lặng lẽ
này, ông ta đã cho xây
nhà sâu vào
bên trong đến gần hai
trăm mét trong khi các
biệt thự khác đều xây
dựng sát đường cái. Sáng sớm và lúc
chiều về, sương mù lảng
đảng trong vườn thông, quyện
lấy căn nhà
bằng một vùng bồng bềnh
tơ trắng. Khi nắng lên, sương
tan và bãi cỏ xanh mượt
mà dần đổi
sắc, điểm đầy hoa vàng.
Những bông hoa bé nhỏ
yếu ớt, chiều
và đêm xếp
lại náu mình
trong cỏ xanh, chỉ xuất
hiện một cách bất ngờ
khi có ánh
nắng mặt trời ban mai. Không
gì tuyệt thú bằng được
nằm dài trên
đám cỏ xanh
điểm hoa vàng này, nhắm
mắt lơ mơ
nghe nắng nhảy múa trên
mặt, không suy nghĩ gì
hay chỉ tơ tưởng về một
chuyện đời xưa cũ.
………………….
Hôm nay, Nguyễn Vũ mời
Minh Hương, Hoài và năm người dự định
tham gia nhóm hợp tác
đi uống cà-phê
tại nhà Thủy
tạ, để bàn
việc thành lập nhóm. Nhà
Thủy tạ là
một công trình độc đáo
trên hồ Hương Xuân, được xây dựng
từ thời Pháp thuộc. Nhà hàng
nằm trên một doi đất
nhỏ ven hồ,
cạnh đường, nhưng vươn hẳn
ra mặt hồ
bằng những trụ chân cắm
xuống đáy. Nhà hàng gọn
gàng, xinh xắn, có sân
thượng bên ngoài và cầu
nhảy dành cho câu lạc
bộ bơi lội
ngày trước. Đây là một
công trình kiến trúc rất
đặc trưng và nổi tiếng
của thành phố du lịch trên
cao này. Từ ngày nhà
nước quản lý và nhà
hàng trở thành quốc doanh,
có mất đi
không khí yên tĩn và
vẻ thơ mộng
ngày xưa. Thay vì chỉ bán
cà-phê giải khát, người ta bán cả đồ
nhậu, bia rượu và căn
phòng chính của nhà hàng
lúc nào cùng
đông nghẹt. ồn ào và
sặc sụa mùi
thuốc lá. Rồi lại lối
phục vụ ghi
phiếu, trả tiền trước của
các mậu dịch
viên ăn lương
nhà nước lúc nào cùng
uể oải. Người
ta chỉ nghĩ đến kinh doanh,
chưa hiểu được tính chất
văn hóa trong
những nơi giải trí, tham
quan du lịch. Người ta đã vật
chất hóa và tầm thường
hóa mọi công
trình và thắng cảnh, làm
cho trung tâm du lịch này
xuống cấp và xuống giá
một cách khủng khiếp.
…………………
Minh
Hương đang dõi mắt về ngọn
núi Mẹ xa xa đang nhòa
dần trong sương chiều rồi
như sực tỉnh:
-
Này, nhân tiện đặt tên
nhóm Hương Xuân, tôi muốn tham khảo
ý kiến các ông về việc
đặt tên cho
tạp chí văn
học của chúng
ta. Nhiều anh em đã đề
xuất, nào là Ngàn Thông, Cao Nguyên, Sương Mù, Ngàn
hoa... Nhưng tôi thấy chưa
ổn. Tên tạp
chí phải đặc trưng hơn,
gợi hơn, nhiều ý nghĩa hơn.
Ngọn núi cao nhất của
vùng đất này là núi
Mẹ, còn có
tên là La Ban, một cái tên
dân tộc đầy
âm hưởng và chứa đựng
một huyền thoại lạ lùng.
Tôi rất mê
cái tên này.
Tạp chí văn
học phải có một cái
tên thật văn học. Tôi
biết mấy ông lãnh đạo
của tỉnh chỉ muốn gọi
là tạp chí
văn học của
tỉnh, cũng như tờ báo
mang tên của đảng bộ
tỉnh. Tham vọng của chúng ta đâu
phải chỉ làm một tạp
chí trong khuôn khổ của
tỉnh này mà còn lớn
hơn nhiều. Ta phải chọn một
cái tên thật
hay rồi thuyết phục mấy ông
lãnh đạo.
Hoài
lẩm nhẩm rồi nói lớn
ý nghĩ của mình:
-
La ban... La Ban... Minh Hương và tôi
đã nhiều lần trao đổi
về cái tên
này. Đây là một truyền
thuyết về chàng La và nàng
Ban. Chàng La vì tình yêu và
công lý cho
con người đã dũng cảm lên
tới tận trời
đấu tranh cho chính nghĩa.
Nàng Ban cũng vượt qua tục lệ
khe khắt của bộ tộc
để đến với
tình yêu. Cả hai đều
chọn cái chết hơn là
phân ly vì
những luật tục hẹp hồi
mù quáng. Tính chất nhân
văn đẹp đẽ
biết chừng nào. La Ban còn là đỉnh cao.
Đỉnh cao của trí tuệ, nhân
phẩm, văn học nghệ thuật.
La Ban lại là suối nguồn, dòng
sữa mẹ, vì
theo một truyền thuyết khác,
hai đỉnh núi kia là hai
bầu vú của
Mẹ in hình lên trời xanh.
Đó là suối
nguồn của văn học nghệ
thuật. Ở xứ này, trời đã
cho ta một cái tên như
thế mà không
dùng thì uổng quá.
Nguyễn
Vũ đảo mắt nhìn mọi người.
Anh lẹ miệng hưởng ứng ngay:
-
La Ban. Nghe được quá. Chúng ta phải dựng
ngọn cờ trên
đỉnh cao này. Bao lâu nay người ta đã bôi
bẩn đỉnh cao tuyệt đẹp
này. Bây giờ chúng ta phải
làm cho nó
tỏa sáng lên.
…………………..
Ở nhà hàng Thủy Tạ
ra, Minh Hương và Hoài đi bộ về
nhà. Cơn mưa đã tạnh
đột ngột như khi nó
bắt đầu. Cuối mùa mưa,
đầu mùa khô
của xứ này,
khoảng tháng 10, 11, có những cơn
mưa gần như
mưa rào của
xứ nóng. Sau cơn mưa, không
khí lạnh thêm đến gần
như buốt giá. Trời đã
vào đêm. Những ngọn đèn
đường tù mù và hiếm
hoi nhưng trên con đường đẹp nhất
thành phố này, những nghệ
sĩ lang thang và những cặp tình
nhân không cần đến ánh
điện. Mây đã tan hết. Sao nhấp nháy trong
hàng cây phủ ngợp mặt
đường. Dưới xa kia, những ngọn đèn
và những ô cửa sổ của
thành phố lờ mờ trong
biển sương như một xứ
sở nào xa xăm.
Mùi
hoa dại, lá cỏ mục
phảng phất. Thỉnh thoảng, một
đám sương mù dày đặc
từ trong rừng ùa ra
rồi tan đi.
………………………………..
Mặt hồ về khuya như
một tấm gương
đen thăm thẩm. Những đợt
sóng lăn tăn âm thầm
dưới lớp khói sương. Những
ánh sao đêm
nhấp nháy lạnh lẽo và
xa vời như những lời mời
gọi huyền bí và đầy
trắc ẩn. Hai người không nói
chuyện nữa. Im lặng đã
ngự trị cả
nội tâm và
đất trời như một bầu
khí ngột ngạt khó thở.
Cuối cùng, không chịu đựng
nổi, Sơ Huyền
đứng lên bảo:
-
Thôi, mình về đi. Ngồi
đây thêm nữa chắc em
sẽ nhảy xuống
hồ mất.
…………………
Đồi Êm là một thắng
cảnh gồm ba ngọn đồi
thoai thoải kế tiếp nhau,
nằm song song với hồ Hương Xuân, ngay cạnh khu
trung tâm làm cho thành
phố này có
một không khí yên tĩnh
dịu dàng đặc biệt ít
nơi nào có.
Đồi toàn cỏ mượt mịn
màng, luôn xanh non pha phớt
tím, dù dưới
nắng chan hòa, trong sương
mù hay giữa cơn mưa tầm
tã vẫn có
sức quyến rũ lạ lùng.
Những cây thông rải rác
tỏa bóng trên khắp ngọn
đồi nhưng vẫn dành lại
những khoảng rộng để nhìn
vào ta có ấn tượng đây
là đồi cỏ
chứ không phải đồi thông.
Sự hài hòa
thật tuyệt vời này là
ưu thế của
thiên nhiên ở đây nhưng cũng
do trí tuệ và trình độ
thẩm mỹ của
những người quy hoạch, xây
dựng thành phó trước đây.
Nếu thiếu hồ Hương Xuân và đồi Êm, thành
phố này có
lẽ mất đi
đến ba phần
tư hay hơn nữa vẻ duyên
dáng độc đáo của mình.
Thế mà nghe
nói trước đây đã có
đồng chí lãnh đạo tỉnh
chủ trương cuốc đồi lên
để trồng mì. May mà sự
ngu dốt đó
chưa được thực hiện hay chỉ
là một huyền
thoại về sự ngu dốt
của một số
người lãnh đạo mà người
dân ở đây đã đặt ra
để châm biếm.
Mỗi lần đi
qua đồi Êm, Hoài thấy lòng mình
tĩnh lặng hẳn đi, vơi
bớt buồn phiền lo nghĩ nhưng
cũng có lúc
anh thấy sự tĩnh lặng
này im ắng
quá, thanh bình quá, gần
như tẻ nhạt,
đến độ tầm
thường trước cuộc sống sục
sôi bão táp.
Sự mâu thuẫn
thường xuyên trong Hoài đã chi phối đến cả
cách nhìn cảnh vật. Dù
sao, thỉnh thoảng được ngả
lưng trên đồi cỏ mượt
cũng đã là
một hạnh phúc cho những
người biết tận hưởng vẻ
đẹp dịu dàng
bao dung của thành phố giữa lưng
trời này.
………………………
Hoài
hôn nhẹ lên
đôi mắt dịu
dàng, đắm đuối và khẩn
cầu của Vy
anh lại thấy
cô như ngày
xưa, nhí nhảnh, tươi mát
nhưng lại phảng phất nỗi
sầu muộn. Anh đứng dậy lấy
áo mưa và
chiếc dù. Họ đi ra
đường. Họ ôm sát lấy
nhau và đi
trong cơn mưa. Hơi thuốc
của Hoài trong cơn mưa và
đêm lạnh dưới chiếc dù
bé nhỏ làm
Vy cảm thấy
vô cùng ấm
áp và hạnh
phúc. Cả Vy và Hoài đều
biết những giây phút thế
này vô cùng
hiếm hoi. Họ đi bất định
dưới cơn mưa mênh mông
và bóng rừng
thông âm u trong đêm tối.
………………..
Mặt trời vừa nhô lên
chiếu những tia sáng đầu
tiên xua tan đám sương mù
lạnh lẽo. Mới đầu cô
hoa mắt, chỉ thấy một
vùng thung lũng trải dài
với những cây anh đào
khô chết, cành khẳng khiu
trùng điệp trong làn sương
mờ. Cô dụi
mắt mấy lần.
Ở chính giữa thung lũng, cách
cô không xa, giữa những cây
mai anh đào
khẳng khiu là một cây
thông hùng vĩ, thân lớn
đến mấy người
ôm, cao ngất
trời và tán
lá rợp cả
một vùng. Hoài đang bị trói
dưới gốc cây đó, trước
mặt anh là
một tiểu đội lính dàn
hàng ngang đang ở trong tư
thế chuẩn bị nổ súng.
Sơ Huyền thấy rõ mặt
Hoài. Khuôn mặt anh xanh xao,
đôi mắt đẹp
dịu dàng ẩn chứa một
nỗi đau đớn
và sầu muộn
vô cùng. Đôi môi anh
mím lại, quả cảm như
một lời thách
thức. Hoài vừa ngước lên nhìn
cô và mắt
anh chợt rực lên như
một tia lửa.
Sơ Huyền vừa gào lên
vừa chạy bổ về phía
anh:
-
Ngừng lại! Không được bắn!
Không được bắn? Không! Không!
……………………
Khi
cô chạm vào
Hoài, sợi dây trói anh bỗng
rời ra, rớt
xuống đất. Hoài quàng tay bế
cô lên và
đặt cô ngồi
xuống bên gốc cây. Anh mỉm
cười:
-
Không đâu. Anh làm sao chết
được. Sao anh lại chết trong
mùa mai anh
đào nở. Em xem kìa.
Giọng anh ấm áp, đầy
tự tin và như một thoáng
reo vui. Cô quay lại. Cả
một thung lũng rực sắc
hồng. Chao ôi là hoa. Đúng
là một rừng
hoa. Những cây mai anh
đào khô chết
cô thấy lúc
đầu bây giờ
đã đơm đầy
hoa. Hầu như không có
lá, kể cả
lá non. Chỉ có những bông
hoa bé nhỏ,
cánh hồng đơm đầy che
khuất hẳn các cành khẳng
khiu. Mỗi đóa hoa là
một đốm ánh
hồng. Mỗi cây là một
ngọn lửa hồng. Cả thung
lũng là một
vùng lửa hồng bập bùng,
ngời lên trong ánh nắng.
Chưa bao giờ cô thấy cảnh
tượng này. Cô sực nhớ
đến tiểu đội lính hành
hình nhưng chúng đã biến
mất như chưa
bao giờ xuất hiện. Cô tưởng
mình nằm mơ. Cô ấp
úng:
-
Có thật không
anh? Sao lại thế này?
Hoài
cười. Tiếng cười anh trong
trẻo:
-
Em không tin à? Mà em có thích
không ? Em đã từng mơ ước
đến một thung
lũng mai anh đào kia mà.
Anh tặng em rừng mai này
đó. Chính tay anh đã
trồng cùng với sự giúp
sức của một
bầy chim. Chúng tha hạt
đến bỏ vào
những hố đất anh đào
bằng chính bàn tay của
mình. Cây lớn nhanh đến
mức không ngờ. Đây là
mùa hoa đầu
tiên và em
đã tới kịp
như anh mong
đợi.
…………………….
Có lẽ gần khoảng
nửa đêm. Nhà thơ đi
một mình lang thang trên những con đường khuya khoắt
của thành phố thân yêu.
Chàng vừa uống mấy cốc
rượu nhỏ với một người
bạn thân, cảm thấy đầu
óc hơi lâng
lâng và tâm
hồn cũng chếch choáng. Trên
đường về nhà nhưng chàng
đi không định hướng. Đã
bao lần chàng lang thang một mình trên
những con đường này để suy
nghiệm về cuộc đời, với
bao đắng cay và tin yêu mà chàng
đã sống trải.
Đêm nay nhà thơ cảm thấy
lòng ấm áp
dù đường khuya im vắng
lạnh lẽo. Sương mù bắt
đầu lan ra
từ những cánh rừng thông.
Tiếng gió thì thầm trong
lá những lời bí ẩn
chỉ cảm nhận
mà không hiểu được rõ
ràng. Có lẽ là lời
muôn thuở của những bản
tình ca dịu dàng và phóng
khoáng. Hương đêm thoảng trong gió,
trong cây lá. Mùi hương này
đối với chàng
thân quen quá. Hương không thể gọi tên
nhưng không bao giờ lẫn được.
Lá cỏ mục
dưới các cánh rừng ven
đường rục rã. Những loài
hoa dại không
tên bé nhỏ
âm thầm thở
hơi nồng nàn vào đêm
sương. Các loài hoa quý phái
trong đêm cũng trở thành
vô danh. Tất cả tan loãng và
quyện vào nhau thành hương
đêm thành phố miền cao
của thông, hoa và thấm
đẫm sương mù này.
Lên hết con dốc, chàng đã
bước vào giữa ngàn sao.
Bao nhiêu lần chàng cảm nhận
cảm giác tuyệt vời đó.
Đi giữa lưng
trời. Những ngọc đèn khuya
nhạt nhòa của thành phố
bên dưới còn sao thì
nhấp nháy, xao xác trong
cây, trên cao, trên thăm
thẳm vô cùng.
Nhân gian và hư vô
hình như cũng gần kề trên bước lang thang giữa lưng trời này.
Nhân gian thấp hèn và
cao cả nhưng
gắn bó, còn
hư vô chỉ
là những thoáng đẹp đẽ
mong manh. Chàng đã làm
thơ về cuộc
đời và hư
không. Tiếng thơ của chàng
ngợi ca, than vãn, reo vui,
sầu não, mơ mộng, bay trong
gió cuộc đời và chạm
tới hư vô.
(trích truyện ngắn
Đối mặt)
……………………………
Gần cuối đời, họa sĩ
đến định cư ở thành phố
Sương Mù. Ông tự cho
đó là diễm
phúc của đời mình. Ông
là kẻ đã
đi nhiều, vẽ nhiều, hầu
như khắp mọi miền của
đất nước. Đôi mắt tinh
tường của ông đã ngắm
bao nhiêu vẻ đẹp hùng tráng,
thơ mộng cũng như những
cảnh tiêu điều, đau thương
của một quê
hương hào hùng và khốn
khổ, cả trong
thiên nhiên và lịch sử,
tâm hồn của
dân tộc. Tất cả đã lắng
đọng và ngân
vang trong hàng ngàn tác phẩm
của ông. Nhưng càng về
cuối đời, ông càng nhận
thấy những tác phẩm đó,
dù được trưng
bày nhiều nơi, trong và
ngoài nước, ông cũng đã
từng kiêu hãnh về chúng,
lại chưa phải là tác
phẩm đích thực của chính
mình. Ông vẫn là kẻ
trên đường tìm kiếm và
chưa đi tới
đích.
Lần đầu tiên đến thành
phố này, ông đã bị
thu hút ngay
bởi vẻ kỳ
diệu, có phần bí hiểm
của một cảnh
sắc thiên nhiên lạ lùng.
Trước đó, ông đã nghe
người ta ca tụng nhiều nhưng ông
vẫn chưa hình dung, cảm nhận được sức
lôi cuốn kỳ bí và
âm thầm của
nó như lần
đầu tiên nhìn cảnh tượng
huy hoàng của rừng thông
trên ngọn đèo trước lúc
vào thành phố. Thực ra
đó là một
cảm giác ông chưa nắm
bắt được rõ ràng. Mãi
cho đến bây
giờ, sau một năm ở thành
phố, cảm giác đó vẫn
còn, như một sự bất
lực, một nỗi khắc khoải
lâu dài trước
cái đẹp, thiên nhiên và
nghệ thuật.
Ông là họa sĩ từng
được học hành chu đáo, có
điều kiện nghiên cứu phong
cách của nhiều trường phái
hội họa đông,
tây, kim, cổ, bản thân
ông cũng đã từng thể
nghiệm nhiều bút pháp, xu hướng,
có tác phẩm
được đánh giá cao nhưng
rồi ông vẫn
cảm thấy mình còn xa mới
đạt đến đỉnh
cao của nghệ
thuật này. Phải chăng hội
họa là sự
hòa điệu của tâm hồn
và ngoại cảnh bằng đường
nét và sắc
mầu nhưng âm chưa tìm
ra được hòa
âm lý tưởng.
Càng lớn tuổi, nhất là
khi về thành
phố Sương Mù này, ông
cảm thấy gần gũi hơn
với phong cách hội họa
phương đông, nhất là tranh
thủy mặc. Ông hiểu tại
sao có người
suốt đời chỉ vẽ trúc,
chỉ bằng một mực mầu
đen duy nhất,
lại đạt đến
độ vi diệu của nghệ thuật
mà con người bao nhiêu thế kỷ
sau vẫn còn
ngưỡng mộ. Ông bắt đầu
tin rằng chỉ có thể tìm
thấy hội họa đích thực
trong thiên nhiên chứ không
thể tìm ở đâu khác.
Chưa bao giờ ông được đắm
mình trong thiên nhiên đầy
đủ như ở đây. Với chiếc
ba lô nhỏ
đựng đồ nghề
sau lưng, ông đi lang thang suốt ngày trong
thành phố. Hầu như mỗi
ngày ông đi bộ không
dưới hai mươi cây số,
bất kỳ thời
tiết nào. Ông đi để
chiêm nghiệm thiên nhiên, thỉnh
thoảng mới dừng lại vẽ
vài nét phác
thảo lên tập giấy
dó mang theo.
Gần suốt một đời cầm
cọ, với tay
nghề điêu luyện, ông ký
họa nmhanh như chớp. Nhưng
vẻ đẹp của
thiên nhiên nơi này thật
khó nắm bắt.
Hồ, rừng cây, núi, mây,
trời, sương, hoa... nào có
lạ gì đối
với bàn tay
lão luyện và cuộc đời
từng trải của ông. Nhưng
ở đây, mọi cái tưởng chừng
như lắng đọng lại không
hề yên tĩnh,
từng lúc lại mang dáng
vẻ và tâm
hồn khác nhau. Có lúc,
nhất là khi
chiều tà, hồ, núi, mây,
trời chỉ là những biên
giới mờ ào,
bỗng chốc hòa lẫn vào
trong sương. Trong một phút, vừa
ký họa xong,
ông đã thấy
cảnh sắc khác đi. Ông
vẽ lại lần
thứ hai nhưng
điều ông vừa ghi lại
đã không còn. Sau vài lần
như thế, ông hiểu mình
không thể vội vàng. Biết
bao nhiêu tác phẩm, kể cà
thơ, văn,nhạc, họa, nhiếp ảnh
cố mô tả
và ca ngợi thành phố này
nhưng đã có mấy tác
phẩm thành công, phần lớn
chỉ là sự
sao chép máy móc, nhợt
nhạt hoặc lời ngợi ca sáo
rỗng. Ông tự hứa sẽ
dành mười năm - thời gian
cuối đời ông hi vọng còn
sống và làm
việc được - để thâm nhập
và vẽ về
thành phố này. Ông hi vọng
đó sẽ là
những tác phẩm hội họa
đích thực ở đỉnh cao mà
ông sẽ cống
hiến cho đời.
(Trích truyện ngắn
Thành phố không còn họa sĩ)
…………………
Lão
nằm chết lặng lẽ dưới
một gốc thông
bên đồi Êm.
Mãi khá lâu
sau khi lão
chết, gia đình đi tìm
mới phát hiện ra. Bây
giờ, người ta đã đưa lão
ra nghĩa trang trong tiếng
chiêng trống buồn bã.
Trong
hai ngày qua, khi xác lão
còn quàn ở nhà, thỉnh thoảng,
tiếng chiêng trống báo hiệu
đám ma và tiếng cầu kinh
nổi lên, âm vang dài trong
thung lũng. Đó là những
gì người sống đã làm
để tỏ lòng
nhớ tiếc lão. Nhưng không
ai nhớ tới việc đi tìm
một cành trúc cắm trước
nhà làm phướn
để dẫn hồn
cho lão. Trước đây, khi
trong xóm có người qua đời,
bao giờ lão cũng đi tìm
một cành trúc mang đến
cắm trước nhà người quá
cố. Để hồn
họ biết đường
tìm về xóm
cũ. Ây thế
mà đến phiên
lão, người ta đã quên.
Lão đã sống ở đây gần
năm mươi năm, là một
trong nhữnbg người đầu tiên
khai phá lập nên xóm
này, hồi đất còn là
rừng hoang còn cả dấu
cọp. Xóm lão ở nằm ven
thành phố, một thành phố
du lịch nằm trên cao nổi
tiếng khắp cả nước với
khí hậu mát
mẻ, cảnh đẹp và hàng
ngàn biệt thự đủ kiểu.
Thế nhưng cuộc đời của
lão cũng như nhân dân
lao động trong xóm ít
được hưởng hứng thú của
thành phố du lịch như khách
nhiều tiền lắm của mọi
nơi tìm đến.
Lão và bà con trong xóm
đã bám lấy
mảnh đất này, chặt cây,
dựng lều, cuốc đất trồng
trọt theo ven suối. Hàng
chục năm mới tạo được
cơ ngơi một
nếp nhà và
một mảnh vườn, quần quật
làm quanh năm mới tạm
đủ sống. Không phải dễ
dàng gì. Sườn đồi dốc,
đất ba dan dẻo quánh nên
làm được mảnh vườn với
nhiều tầng ngang chỉ với
hai bàn tay
và cây cuốc
là công trình
sức lực và
mồ hôi bao nhiêu năm. Đã
thế, khí hậu rất khắc
nghiệt, không chỉ như người
ta ca tụng. Trước đây, ở nơi thấp
nhất dọc theo suối, buổi
sáng, sương mù đọng hàng
mấy giờ chưa
tan và buổi chiếu, khí độc
vô hình bốc
lên đã làm
đau ốm và
chết không ít người. Sau này,
khi đã lớn
tuổi, lúc chiều muộn, lão
không dám xuống vườn dưới
nữa. Chỉ mới bước xuống
thôi, dù đã mặc quần
áo ấm, lão
đã thấy ớn
lạnh và người
ngầy ngật khó chịu, dù
thế lão vẫn
rất gắn bó
với mảnh vườn của mình,
nơi mà từng
nắm đất đều
in dấu vết bàn tay sần
sùi chai sạn của lão. Cả
căn nhà nữa,
dù mấy mươi
năm trôi qua, căn nhà lão
vẫn thế, một trong những
căn nhà kiểu
cổ lỗ nhất
còn sót lại
ở xóm này, tuy cột đã
mục, vách gỗ bị mối
ăn.
Chính vì mảnh vườn và
ngôi nhà thân thiết mà
lão đã không
đi Mỹ. Hồi
75, vợ lão đang ở với đứa
con đầu là sĩ quan đã
cùng nó di tản sang Mỹ. Trước
khi đi, con lão có nhắn
lão xuống gấp với nó
để cùng đi,
nhưng phần vì chưa biết
tin tức đứa con út cũng đi
lính, phần vì không nỡ
bỏ vườn, nhà, lão đã
không đi. Lão tâm nguyện,
dù chê độ nào, sống chết gì
lão cũng ở trên mảnh đất
này.
…
Cũng như bao năm qua, lão quanh
quẩn với mảnh vườn dù
sức yếu không
làm được bao nhiêu. Buổi chiều
lão thường ngồi trước cửa
ngó mông ra vườn và
dọc theo thung lũng. Mùa
lá hồng rụng
mới buồn làm sao. Những
cây hồng xanh mướt rậm
rạp che kín
các vườn, sau mùa thu
hoạch trái, trong một thời
gian gắn lá rụng sạch.
Suốt hai sườn đồi, những
cây hồng trơ cành khẳng
khiu như cảnh vật một
vùng đất chết. Được cái
là chẳng bao lâu hồng lại
đâm chồi nẩy lộc.
Lão thích nhất là gần
cuối đông khi mai anh
đào nở. Cây
hoa mới lạ.
Nó cũng giống
hồng ở chỗ mùa rụng lá
là rụng sạch
trơ cành, những cành còn
mảnh mai hơn cành hồng
nhiều, nhưng khi ra hoa
thì nở rộ
trước khi ra lá. Chao ôi,
những đóa hoa bé nhỏ
phớt hồng dày đặc đến
độ cả cây
bừng lên như một ngọn
lửa hay như một đám khói
hồng bập bùng trông rất
ấm áp và
vui mắt, dù hoa chỉ
nở và tàn
trong vòng một, hai tuần.
Cuối vườn của lão có
hai cây mai
anh đào lớn
và bao nhiêu cây con đang mọc.
Các vườn khác trong xóm này
cũng thế. Lão cám ơn
loài chim đã duy trì
và phát triển
loài hoa lạ đó trong
thung lũng này khi mang
hạt đem gieo
khắp nơi. Trên các con đường
của thành phố có tên
xứ hoa đào
này, các cây đào trông
ngay hàng thẳng lối ngày
xưa đã rụi
cả. Người ta chỉ muốn chặt
cành đem về cắm, thậm
chí làm củi
chứ không ai bảo vệ, vun
trồng.
…
Có một chi tiết về cái
chết của lão mà người
ta ngại kể lại. Đó là
khi ngã xuống
bất tỉnh rồi đi luôn,
lão gối đầu
lên một đống
phân bò lớn,
bên cạnh là gánh phân
đã chất đầy
khá nặng. Có lẽ trên
đường về, mệt nhọc nhưng
thấy đống phân lớn, lão
tiếc nên dừng lại cúi
xuống hốt nốt. Không biết
lão trúng gió, lên cơn
đau tim hay đứt mạch máu.
Có người chứng kiến kể
thêm, điều kỳ lạ là
chết như thế nhưng nét
mặt lão rất
thanh thản, hình như phảng
phất nụ cười,
tay chân lão không co quắp
mà dang ra thoải mái. Lão
nằm chết nhẹ nhàng trên
thảm cỏ, dưới bầu trời
xanh biếc và những ngọn
thông hiền hòa phủ lên
mặt lão tấm
khăn tang - bóng mát dịu dàng.
(Trích truyện ngắn
Người nằm chết trên đồi)
Vị linh mục dẫn ông
và nàng vào
nhà thờ và
đi ra khép
cửa, để hai
người tĩnh tâm một lúc
trong lúc chờ đợi linh
mục trở lại.
Chưa bao giờ ông ở trong nhà
thờ vắng lặng như thế
này. Nàng ngồi xuống ghế
nhắm mắt lại trầm tư.
Ông nhẹ nhàng
đi một vòng
ngắm cách cấu trúc và
trang trí trong nhà thờ.
Ông đã từng đi qua nhà
thờ nổi tiếng
này hàng ngàn lần nhưng
chưa bao giờ vào bên trong.
Đó là một
ngôi nhà thờ cổ kính,
xây dựng gần một thế
kỷ nhưng vẫn bền vững
với thời gian, hầu như
không có một vết nứt.
Trần
nhà không cao lắm nhưng
có vẻ lồng
lộng với những vòm tròn
quét vôi màu hồng nhạt.
Những cửa kính màu là
những bức tranh thánh tích
kỳ ảo. Nhìn
từ bên trong
ra, những vầng hào quang,
những trái tim thánh thiện,
những tà áo thanh sạch
của các vị
thánh ngời lên ánh sáng
sống động lạ lùng. Tất cả
là tác phẩm
nghệ thuật của những nghệ
sĩ bậc thầy
chắc chắn đã được làm
nên bằng trái tim sùng
tín và bàn
tay tài hoa
cách đây hơn sáu mươi
năm theo ngày tháng ghi
chú bên dưới.
Ông cảm thấy
mình hơi xa lạ nhưng kính
phục loại nghệ thuật này,
nghệ thuật trong tôn giáo
hay tôn giáo qua nghệt htuật. Ông
vốn là kẻ
vô thần ngay
từ thời trẻ.
Nhìn những bức tranh này,
ông cảm nhận
người nghệ sĩ không phải
sáng tạo một cách thông
thường mà chắc chắn đã
làm nên tác
phẩm trong một trạng thái
tinh thần hưng phấn kỳ
lạ, có thể
là một cách nguyện cầu hay dâng hiến
của người nghệ sĩ.
Bên dưới những bức tranh
kính màu, chỉ cao hơn
tầm đầu người
là những phù điêu về
sự tích Chúa Giê Su, có lẽ
làm bằng xi măng. Những phác
họa đơn giản,
mầu vàng nhạt, hơi nặng
nề nhưng phù hợp với
các cảnh Chúa giê Su vác thập
tự giá trong
nhiều tư thế trên đường
đi lên chỗ
chịu nạn. Cây thập tự
giá, một dụng cụ hành
hình, đã trở thành cây
thánh giá, tượng trưng cho
một tôn giáo,
cho lòng sùng kính của
hàng triệu triệu người, bằng
sự hi sinh cao cả của
một con người, một con Thiên chúa, theo như giáo
lý của tôn
giáo này.
Đi hết một vòng quanh
tường nhà thờ, ông đứng
lặng nhìn lên tượng Chúa Giê Su lớn phía
sau bệ thờ.
Một thân thể gần như
trần truồng với mảnh vải
khoác chéo che thân bị
đóng đinh trên cây thập
tự lớn mầu
nâu. Chiếc đầu đội vòng
gai rỉ máu ngoẹo sang bên. Thân hình với mầu
da rất giống người thật nổi
rõ từng bắp
thịt trên cánh tay, lồng
ngực, cặp đùi và những
chiếc xương sườn lồ lộ.
Những chỗ đóng đinh ở tay,
chân và vết
thương ở sườn đang tiếp tục
chảy máu. Ai đã khắc họa
nên hình tượng này hay chính
là một hình
ảnh có thực
đã trở nên
lồng lộng qua không gian và
thời gian. Đó không phải
là một thân
thể. Đó là
sự khổ nạn.
Không phải khổ nạn. Đó
là sự hi sinh. Không phải
hi sinh. Đó chính là tình
yêu. Một tình yêu mãnh
liệt, rộng lớn,vượt qua phản bội, tội ác,
khổ đau và
cái chết. Phải chăng đó
là cái gì
rất mơ hồ
nhưng cũng rất rõ ràng
ông cảm nhận
được từ giáo
lý của một
tôn giáo khi đứng trước
hình tượng bi thảm và hùng
tráng này.
(Trích truyện ngắn
Hành trình trăm năm)
Chàng là một trong những
gã lang thang cố hữu lâu nhất
của thành phố sương mù.
Thành phố bé nhỏ giữa lưng
trời giá lạnh này có
nhiều cái tên huyền thoại
và những huyền thoại về
các gã lang thang. Nhiều người đã
đến đây để
lang thang một thời gian trong cuộc
đời họ. Nghĩa là họ có
thể lẳng lặng đi, cảm
nhận và suy
tưởng mà không ai quấy rầy.
Trong thời đại này có lẽ
ít thành phố nào có
điều kiện như thế cho
những kẻ lang thang vì hầu như
bất cứ ở đâu cũng có
đám đông, tiếng ồn, nhạc
giật, quảng cáo và đủ
mọi thứ quấy
nhiễu. Người ta khó lòng được
yên tĩnh để mơ màng
và trầm tưởng
cho riêng mình. Thành phố này đã quyến
rũ những kẻ lang thang vì bầu khí và
không gian tĩnh mịch, đôi
khi huyễn hoặc của một
vùng mộng ảo.
Một quán café vắng với nhac
êm dịu có
thể ngồi nhâm nhi tách
đắng nhìn màn mưa mịt
mù qua lơp cửa kính. Một
bãi cỏ non êm tơ thoáng
đãng có thể
ngả mình sưỡi nắng và
nghe gió hát trên cao.
Một mặt hồ
tĩnh lặng ôm chứa ngàn
sao và ánh
điện phố phường lung linh trong đêm khuya
khoắt. Một dòng suối rì
rào bất tuyệt
bản trường ca nguyên sơ hoang
dã. Một cánh
rừng vi vu tiếng hát của những
lá cây hình
kim mềm mại
xanh mướt. Một vườn hoa
nở rộ trăm
hồng nghìn tía hay chỉ là
một bông hoa dại vô
danh nơi vệ cỏ ven
đường. Một buổi chiều tà
ánh lên sắc
nắng âm u trong bầu trời
lạnh giá và trên những
dãy núi xa mờ thấp thoáng.
Một buổi sáng con đường phố dốc cuồn
cuộn sương mù như trong
một chuyện thần tiên... Người
ta có thể đi và trầm
tư ở những nơi, những lúc,
những phút giây, những gặp
gỡ lặng lẽ
dịu dàng để cảm nhận
về khoảnh khắc cô độc
êm ái của
đời mình.
Nhiều người đã tìm đến
đây trong một ít tháng
ngày để lang thang, nhưng riêng chàng,
hầu như chàng
đã dành hết
đời mình cho cuộc lang thang trên thành phố
bé nhỏ này.
Thế nhưng hình như chàng
vẫn chưa tìm ra, chưa
tìm được cuộc sống đích
thực của đời mình. Có
phải như thế không? Đôi
khi chàng đau đớn tự
hỏi.
Chàng đã đến đây từ
lâu lắm, thuở còn là
một thanh niên trẻ trung
và mơ mộng
từ một xứ
sở khô cằn
gió cát. Sau buổi lang thang ban đầu, chàng đã gặp
gỡ người thiếu nữ mình
yêu, lập gia đình, có
con và làm việc cho cuộc
mưu sinh. Nhưng một gia
đình không thể lang thang cùng chàng, dù chỉ
là trong tư tưởng. Vốn
là một giáo
sư triết học, chàng bay lượn ở tầm cao của
những trí tuệ cổ kim
đông tây. Với tâm hồn
lãng mạn, chàng ngao du qua những trang văn
chương diễm tình và những
cuộc hợp tan thấm đẫm niềm
vui và nước
mắt. Chàng lắng nghe phận
người tuôn chảy trong thời
gian miên viễn. Chàng đắm
chìm trong những giấc mơ
siêu thoát... Những điều đó
làm chàng ngày càng xa lạ
với cái gia
đình bé nhỏ
mà chàng tưởng đã là
nơi sưỡi ấm tâm hồn
cô đơn khao khát của mình.
(Trích truyện ngắn
Những gặp gỡ không muộn
màng)
Chàng đã ngồi rất lâu
ở ngã tư đường - bến xe
ôm - quen thuộc, không buồn
nói chuyện với các bạn
đồng nghiệp chung quanh. Hôm
nay ế khách và ai cũng ngáp dài
ngáp ngắn. Chàng đã hút
gần một bao thuốc, tàn vứt
bừa bãi bên
lề đường. Một người bạn
rủ chàng đi uống rượu
nhưng chàng từ chối. Bây
giờ chàng hoàn toàn tự
do, không ai quản thúc, có thể
hút thuốc, uống rượu tùy
thích nhưng hôm nay chàng cảm
thấy tâm trạng mình quá
nặng nề và
hầu như không
nhấc mình nổi khỏi chiếc
xe. Chàng muốn mình hóa
đá trong buổi chiều tà
lạnh lẽo của thành phố
cao nguyên này.
Mùa đông ở đây không mưa
nhưng lạnh giá vô cùng,
nhất là đối
với những người phải làm
nghề đứng đường như chàng,
Lái xe ôm,
không biết có phải là
một nghề không, công việc
mà những người đàn ông
thất nghiệp, thất cơ lỡ
vận phải làm khi không
thể tìm ra
việc gì khác.
Đó là nghề
không cần được đào tạo.
Chỉ cần một
chiếc xe gắn máy và
thông thuộc đường trong thành
phố là người
ta có thể hành nghề. Dĩ
nhiên phải chịu dãi dầu
mưa nắng, đứng suốt ngày
ngoài trời đợi khách trong
bất kỳ thời
tiết nào, có khi đến
tận nửa đêm.
Đã gần mười năm qua, chàng
sống cuộc đời như thế,
luôn luôn ở ngoài đường. Chàng
đã đứng trong
những đám sương mù cuồn
cuộn lúc tinh mơ đã
trở nên hiếm
hoi của thành phố có biệt
danh thành phố sương mù.
Chàng đã đứng dưới những
buổi trưa nắng gắt không
kém buổi trưa oi nồng ở các thành phố
bình nguyên. Chàng đã đứng
giữa những buổi hoàng hôn
lạnh giá với ngọn gió
mang đầy hơi nước thổi
thấu tim chàng xuyên qua lớp áo blouson dày hai lớp.
Chàng đã đứng trong những
đêm khuya âm u mà muôn
vạn vì sao
trên trời và ánh đèn
phố thị, kể cả những
ngọn đèn cao áp rực
rỡ, không đủ soi sáng lòng
chàng.
(Trích truyện ngắn
Trong buổi chiều tà)
Ở Đà Lạt, chúng tôi đi
lo giấy tờ của BY và đi
thăm cáp treo. Nơi đây,
nơi chúng tôi đã sống
hơn 15 năm, thắng cảnh nào
cũng đã biết,
riêng cáp treo mới được
xây dựng và khai trương
vào dịp Tết
vừa qua chưa đi.
Đà Lạt là xứ
du lịch “trời cho” với cảnh
quan và khí
hậu thuộc loại hấp dẫn
nhất Việt Nam nhưng những việc “người
làm“ để phục
vụ du lịch còn quá ít,
đôi khi phản
tác dụng mà người dân
địa phương và báo chí
đã phê phán
nhiều. Trụ sở vĩ đại
và thô kệch
của Đài Truyền
hình mới xây dựng án
ngữ ngay lối vào của
thành phố. “Con chim Lâm Cẩu” xấu
xí vẫn còn
nặng nề giương
cánh ở bùng binh trước chợ
Hoà Bình. Đồi Cù tự do mộc mạc
tuyệt đẹp ngày nào đã
trở thành sân golf hiện đại
rào kín chỉ
dành cho khách lắm tiền,
chủ yếu là
người nước ngoài. Vườn cỏ
xanh mát dịu dàng với
những chiếc ghế dài trắng
tinh rải rác hầu như
không lúc nào thấy người
ngồi của khách sạn ba sao Đà
Lạt Palace là một sự lãng
phí lớn, đồng thời cũng
là một điều
mỉa mai. Cả thành phố
Đà Lạt hầu
như không còn bãi cỏ
tự do nào cho trẻ con đùa
chơi và những
cặp trai gái tình tự.
May ra còn chút rẻo quanh
hồ Xuân Hương nhưng
khi làm đường,
người ta ủi bừa đất vào
lô xô lảm
xảm, dù cỏ
mọc lên cũng
không còn mấy chỗ ngồi
êm ái.
Đồi Cù trở thành sân
golf hiện đại, được cải tạo,
làm mới, trồng thêm cây,
đào thêm hồ, cỏ được
chăm sóc xanh tốt mịn
màng, được rào dậu kỹ
lưỡng lại là cái gai trong
mắt người dân thành phố
và nhiều du khách.
Từ năm 1993 khi chính quyền
tỉnh cho một công ty nước
ngoài thuê đồi Cù để
làm sân golf, người dân thành
phố và nhiều
tờ báo đã
lên tiếng phản đối. Người
ta bảo quyết định đó chẳng
khác gì đem
bán của hương
hỏa và thiếu
tầm nhìn về chính trị,
xã hội và
cả kinh tế.
Đồi Cù bên
hồ Xuân Hương giữa lòng thành phố
là một cảnh
quan tuyệt vời tạo nên
đặc trưng và sức quyến
rũ của bộ
mặt thành phố cao nguyên
xứ lạnh này.
Đồi Cù tự
do là bãi cỏ thiên đường
ghi dấu kỷ
niệm của biết bao cư dân
thành phố và du khách. Với
nhiều người từ khi còn
trẻ thơ họ
đã được chơi
đùa trên đồi cỏ và
khi lớn lên
đã từng cầm
tay người yêu ngồi tình
tự dưới bóng
mát dịu dàng
của ngọn thông vi vu nắng gió. Bây giờ
thiên đường đó đã mất.
Đúng hơn thiên đường đã
trở thành của riêng của
một số ít
người lắm tiền bạc, phần
lớn là khách
nước ngoài.
Dân Đà Lạt không
bước vào và cũng không
nhìn rõ được
đồi Cù nữa,
vì sau một
thời gian các loại cây
leo ở hàng rào mọc lên
che kín. Chỉ có những
công nhân phục vụ cho
sân golf và mấy cô sinh
viên vào làm thuê xách
gậy lếch thếch chạy theo
khách thấy được sân golf đẹp
như thế nào
(!?)
Sân golf đã tác động
xấu đến môi
trường thành phố. Ban đầu lúc
mới san ủi,
trời mưa cuốn đất xuống
lấp cạn cả
hồ Xuân Hương. Sau đó thuốc trừ sâu,
thuốc diệt cỏ, phân bón
theo mưa chảy xuống hồ
làm ô nhiễm nguồn nước, cùng
với các loại
tảo độc xuất
hiện đã làm
nước hồ xanh
đen đục ngầu
và hôi thối.
Khu vực phụ cận có bao nhiêu
ngọn đồi có thể làm
sân golf được, tại sao lại
phải lấy đồi Cù ngay
giữa trung tâm thành phố?
Một quyết định thiển cận
gây nên bao nhiêu hệ lụy.
Về mặt kinh tế,
nghe nói sân golf này thua
lỗ triên miên vì không
có khách. Chưa có
đường bay trực tiếp từ
các nước đến Đà Lạt
nên khách giàu có chơi
golf ít ai muốn đi 300 cây số
đường bộ nhọc nhằn từ
Sài Gòn lên
Đà Lạt.
Biến đồi Cù thành
sân golf là một quyết định
sai lầm về
mọi mặt, chẳng có lợi
gì cho ai ngoại trừ một
vài kẻ nào
đó có thu
nhập bất chính qua chuyện lo lót khi ký
các hợp đồng
kinh tế.
Theo ý kiến nhiều
người, đồi Cù trở thành
công viên, vườn thực vật
mới là giải
pháp tối ưu và sẽ
trở thành nơi thân yêu
của cư dân
thành phố và du khách có
thể cảm nhận
rõ nhất thế
nào là Đà
Lạt, thành phố dịu dàng
và trữ tình
nhất trong mọi thành phố
của đất nước
này.
Công bằng mà nói thành phố
cũng đã được
sửa sang xây dựng nhiều. Các khách sạn Đà
Lạt Palace, Đà Lạt Novotel đã trở thành khách
sạn ba sao
nổi tiếng sang trọng. Nhiều khách
sạn khác cũng được nâng
cấp hoặc xây dựng mới
hiện đại. Các công sở, nhà
hàng và nhà
các quan chức to đẹp bề
thế mọc lên
khắp nơi. Đường sá nội
thành hầu như mở rộng
và làm mới
hoàn toàn, một số công
viên mới được xây dựng.
Tuy nhiên việc xây dựng không
theo quy hoạch, không tôn
trọng không gian kiến trúc
và cảnh quan
môi trường, chặt phá tùy
tiện các đồi thông đã
làm Đà Lạt
mất dần bản
sắc ngày xưa, một cái
gì là hồn
phố lãng mạn êm ả, trữ
tình làm cho Đà Lạt
không giống bất cứ thành
phố nào khác.
Thành phố này muốn vươn cao
cùng thời đại mà vẫn
giữ được bản sắc, cần
những người lãnh đạo không
những có trí tuệ, tầm
nhìn cao hơn, mà còn
cần phải có ít nhất
một chút lãng mạn và
trái tim dễ rung động của
người nghệ sĩ đam mê
cái đẹp chứ
không phải là đầu óc
thực dụng.
Riêng về cáp treo, một loại hình
phục vụ du lịch rất phù
hợp với địa
hình Đà Lạt
đã được nói
đến và thực
hiện trong nhiều năm trước
nhưng bất thành. Một công
ty nước ngoài nào đó đầu
tư, quảng cáo ầm ĩ nhưng
không rõ vì sao đã
động thổ khởi công rồi
bỏ cuộc, nghe nói là
không có vốn. Thật kỳ
lạ ! Mới đây, người ta âm
thầm làm, không dám quảng
cáo gì nữa
và lúc sắp
hoàn thành đưa vào sử
dụng mới dám công bố.
Chúng tôi cũng háo hức
đi xem thử
bộ mặt cáp
treo Đà Lạt
thế nào.
Đầu trên của cáp
treo được xây dựng trên
ngọn đồi đầu đèo Prenn.
Theo con đường nhựa mới mở chạy
quanh co khoảng vài trăm mét
là đến vị
trí của đầu
cáp trên đỉnh đồi. Đây
là một mặt
bằng khá rộng được thiết
kế một công
trình kiến trúc khá hợp
lý với bãi
đậu xe, nhà
hàng, nhà khách, phòng bán
vé và nơi
điều khiển cáp treo trên
tầng cao nhất. Một sân
rộng hình bán nguyệt với
cây cảnh và lan can bao quanh lộng gió.
Từ đây có
thể nhìn toàn cảnh thành
phố bên dưới,
một chặng đèo quanh co phía
đông nam và dãy núi
với đỉnh Lang Bian cuối trời phía
bắc.
Chúng tôi đến gần
trưa nhưng khách vẫn đông.
Giá vé khá
đắt: 50.000đ cho người lớn một
lượt đi về.
Nghe nói chỉ trong mấy ngày
Tết đã thu
tiền vé được
vài tỉ. Cáp
treo có 50 cabin, mỗi cabin ngồi được bốn người,
thiết kế gọn và xinh
xắn, nhiều mầu sắc khác
nhau với cửa kính trong
suốt tứ phía.
Hai dây cáp lớn chuyển động
liên tục giữa các ròng
rọc trên các đầu trục
đưa các cabin êm ả lướt về
hai chiều ngược nhau trên
các ngọn thông. Đầu dưới
của cáp treo
ngay trên lối vào Trúc Lâm thiền viện cách
đầu trên khoảng hơn hai
cây số. Cho đến nay đây là
cáp treo dài nhất Việt Nam.
Việc chọn địa điểm
cáp treo ở đây khá thích
hợp. Cùng với chùa Trúc Lâm và hồ Tuyền
Lâm, đây quả là một khu
du lịch phức hợp lý tưởng.
Khách có thể đi cáp
treo đến chùa viếng cảnh
rồi thuê thuyền đi chơi
trên hồ, sinh hoạt dã
ngoại trong rừng và trở
về bằng đường
cáp treo cho một ngày
đi chơi thú
vị.
Cabin chúng tôi
đi lúc mới
lên có bốn
người nhưng ngay sau đó,
hai người kia, có lẽ là
đôi tình nhân hay vợ chồng
trẻ nhảy vội xuống đi
cabin sau, họ nói muốn đi
riêng để chụp hình. Những
người phụ trách cáp treo
không phản đối nên chúng
tôi cũng được đi riêng
hai người. BY sợ độ cao
nên cứ nắm
chặt lấy tay tôi và
chúng tôi ở bên nhau, trên
cao lồng lộng, trong một
cảm giác mới mẻ gợi
nhớ những ngày tháng lãng
mạn xa xưa thời trẻ. Chúng
tôi chụp hình cho nhau
với bối cảnh
bên dưới là rừng thông
bát ngát và hàng dọc
những cabin khác đang chuyển động
trên đường dây.
Cáp treo là một
công trình phục vụ du lịch
mới đáng tán thưởng. Tuy nhiên việc trồng
cây quanh hồ Xuân Hương và trên các trục
đường, nhất là đối với
loại cây mai anh đào,
một đặc trưng
của Đà Lạt
thật đáng chê trách. Gần
30 năm qua, năm nào cũng hô
hào phát động trồng cây
ầm ĩ mà đến
nay mới chỉ một số ít
cây sống được, phần lớn
chết, bị chặt phá hay xác
xơ còm cõi.
Năm nay do khí hậu thời tiết
thay đổi tác động, hoa
mai anh đào
nở muộn. Thường hoa này chỉ
nở và tàn
khoảng một tuần trước hoặc
sau Noel nhưng năm nay đến Tết
hoa mới nở.
Ngày chúng tôi về đây
vẫn có một
vài cây còn
hoa bập bùng
một màu hồng
nhạt quanh hồ Xuân Hương và trên đường dốc
lên khu Hoà Bình. Hầu như tất
cả đều là
những gốc mai già còn
sót lại từ
thời xa xưa. Chúng tôi cũng
ghi được mấy tấm hình
bên cảnh tượng hiếm hoi này. Người dân
địa phương và báo chí
rất tán thưởng
hiện tượng này, coi đây
như nét hồi
sinh của “thành phố hoa
đào” một thời vang bóng. Nghe nói nhân dịp
này chính quyền địa phương
đã quyết định đặt tên
một con đường là đường “Mai anh
đào” và quyết
tâm trồng lại hàng cây
kỳ diệu đặc
trưng này của thành phố.
Cũng rất mong điều này
được thực hiện và người
dân Đà Lạt
có thể tự
hào về một
tên gọi lãng
mạn của thành
phố mình bên cạnh những
tên gọi khác
như “thành phố ngàn hoa”,
“thành phố trên cao”…
(Trích bút ký
Hành trình mùa xuân)
Tôi đã từng đi xuyên
Việt bốn lần, bằng những phương
tiện và với
mục đích khác nhau. Đây
là lần thứ
năm tôi lại
đi, có những
cảm nghiệm khác, với những
người bạn đặc biệt, tất
cả đều là
cựu sĩ quan
Thủy Quân Lục Chiến của Việt Nam Cộng Hòa ngày
trước.
Tôi có một người bạn
cũ từ thời
trung học. Khai Nguyên là mật danh
trong đơn vị của anh
sau này. Hồi đó chúng
tôi mới 15-16 tuổi, học trung
học đệ nhị
cấp ở một tỉnh lẻ miền
Trung. Hai chúng tôi đều yêu một
cô bé 13 tuổi, mới học
đệ lục. Chuyện
tình – nếu có thể dùng
được từ đó
– thật dễ thương. Chúng tôi
không ganh tị nhau mà
lại thân nhau mới lạ.
Hàng đêm chúng tôi đến
trước cổng nhà cô bé
chờ đợi để
được nhìn thấy bóng cô
xuất hiện bên ánh đèn
cửa sổ. Chúng
tôi đi chơi
trèo lên một ngọn núi
đá, mỗi đứa
đều cố sức
leo lên mỏm
cao nhất để khắc tên
mình và cô
bé trên đó.
Chúng tôi viết những lá
thư tình có ướp hoa
ngọc lan … Đủ mọi kiểu
của tình yêu học trò.
Nhưng oái oăm thay, khi
lớn lên một
chút, cô bé lại đi
yêu một anh
chàng khác, cũng là một
người bạn của chúng tôi.
Hai kẻ thất tình đều vỡ
mộng. Có thể vì thế
mà thêm một
lý do để chúng tôi thân
nhau chăng.
Lớn lên mỗi người đi
mỗi ngả, chỉ gặp nhau
vài lần. Tôi học sư
phạm, ra trường đi dạy.
Anh vào binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Năm
75 anh sang Mỹ, đi học lại,
tốt nghiệp kỹ sư, làm
việc cho các công ty tin học. Theo lời anh
nói, anh là một trong
những người Việt tỵ nạn khá
thành đạt trên xứ người,
từ hồi đi
làm, chưa ngày nào thất
nghiệp. Mấy năm gần đây,
đọc được các sách của
tôi xuất bản bên Mỹ
và những bài báo tôi
viết trên mạng, anh bắt
đầu tìm cách
liên lạc lại bạn cũ.
Trong một chuyến trở về quê
hương lần trước, anh đã
bỏ công thuê
xe đi tìm
những nơi tôi đã từng
sống mà anh
biết, cuối cùng có được
số điện thoại
và địa chỉ
của tôi. Anh lập tức gọi
điện và hôm
sau có mặt
ở nhà tôi. Chúng tôi ôm
lấy nhau sau hơn 30 năm
xa cách và nói chuyện từ
sáng cho đến tận khuya.
Đầu năm nay anh lại về
thăm cùng với gia đình.
Anh có nhã ý mời vợ chồng
chúng tôi và vợ chồng
ba người bạn cũ khác
đang ở trong nước, mới liên
lạc lại, đều là là
cựu sĩ quan
Thủy Quân Lục Chiến, làm một
chuyến lãng du xuyên Việt. Tất cả chi phí đều do anh
đài thọ. Ba anh chàng cựu
sĩ quan này
có hoàn cảnh
hơi khác nhau. Đơn Dương bị bắt làm
tù binh. Hòa Bình sau 75 mới đi cải
tạo. Trung Dũng bị thương giải ngũ
trước 75 nhưng cũng phải đi
cải tạo. Ba người này vì
điều kiện riêng và hoàn
cảnh gia đình, không ai đi nước ngoài,
chịu nhiều cay đắng của những
người lính thất trận và
tất cả đều
kiếm sống bằng đủ mọi
thứ nghề linh tinh. Rất
tiếc ba bà
vợ của ba
người này bận việc gia
đình không đi được, nên
cuối cùng đoàn lữ hành
chỉ có hai
phụ nữ là
Khanh, vợ Khai Nguyên, BY vợ
tôi và năm
người đàn ông.
Khai
Nguyên sợ Khanh và vợ chồng chúng
tôi không hòa hợp với
những người bạn lính tráng
cũ của anh
nhưng điều lo ngại đó đã
không xảy ra. Khanh là một
phụ nữ có
bề ngoài khả ái, tính
tình cởi mở, phóng khoáng,
đã nhanh chóng trở nên
thân thiết với BY, luôn chăm
sóc chu đáo cho chồng và
các bạn, nên tất cả
chúng tôi đều nhanh chóng
hòa đồng và trở thành
bạn bè, đôi
khi có không
khí như một
gia đình. Tôi là cựu
sinh viên tranh đấu chống
chính quyền Sài Gòn, đã
từng gia nhập đảng cộng
sản và bị
khai trừ, đang là người
bất đồng chính kiến với
chế độ. Tôi
và Khai Nguyên cũng như các bạn
mới tuy có
nhiều khác biệt nhưng đều
đã lớn tuổi,
trải nghiệm nhiều nên hầu
như ai cũng trầm tĩnh, có
cái nhìn nhân ái, bao dung về cuộc sống.
Sự trân trọng
tình bạn cũ với Khai Nguyên cũng là một
mối liên kết giúp chúng
tôi gần nhau
qua những câu chuyện xưa mà
chúng tôi cùng chia sẻ. Nhờ
thế, chuyến đi hơn hai
tuần đã không
ngớt lời trò chuyện và
đầy ắp tiếng
cười.
Tôi đang ở Đà Lạt. Các bạn
khác từ Sài
Gòn lên, ở đây chơi vài
hôm trước khi đi tiếp
ra trung. Vợ chồng Khai Nguyên mấy năm trước
đã từng qua đây nhưng các
bạn khác đã khá lâu
chưa lên Đà Lạt, vì
thế chúng tôi đưa họ
đi chơi một
vài nơi như
Hồ Tuyền Lâm, Thung Lũng Vàng…
Từ thành phố, hiện nay có
ba đường đi Hồ Tuyền
Lâm. Đổ đèo Prenn, giữa đèo
rẽ phải vài
cây số. Đi
bằng cáp treo từ đầu
đèo, với vài chục phút
lướt trên rừng thông. Qua ngả Dinh 3 Bảo Đại theo con đường mới mở chạy
thẳng đến cuối hồ. Hồ
Tuyền Lâm theo quy hoạch, tương
lai sẽ là
một khu du lịch phức hợp
gồm nhiều loại hình và
đang có nhiều
dự án đầu
tư, tuy nhiên
tiến độ triển
khai rất chậm.
Bên cạnh cuối hồ Tuyền
Lâm là Chùa Trúc Lâm, một thiền viện
thuộc hàng lớn nhất nước,
mới được xây dựng hơn
10 năm nay, trên mấy ngọn đồi
thông, với hàng trăm tăng,
ni sinh đang
tu học. Chùa
Trúc Lâm nhanh chóng trở thành một
thắng cảnh, không chỉ là
nơi Phật tử đi chiêm
bái mà còn
là điểm đến
hầu như của
mọi du khách khi đến Đà
Lạt. Ngoài chùa chính với
những công trình phụ trợ
như gác chuông,
cây cảnh ở ngay lối vào
và các nhà
ở cách biệt của tăng, ni
khuất sau rừng, phía trước
là một cảnh
quan được xây dựng dựa
vào địa thế
tự nhiên với nhiều kỳ
công. Hàng mấy trăm bậc
cấp đi vòng
theo thế núi, đưa khách
đi dần xuống
bến thuyền dưới hồ, thỉnh
thoảng lại có một mái
đình nhỏ có ghế đá
để khách ngồi nghỉ chân
ngắm cảnh hồ bát ngát
qua thấp thoáng ngọn thông. Con đường dẫn tiếp
đến lối ra,
dọc theo một rừng trúc
vàng và một
chiếc hồ nhân tạo, để
khách không cần phải trở
về theo lối
cũ.
Chúng tôi ngồi dưới một
mái đình nghỉ mệt để
chụp ảnh và trò chuyện.
Khai Nguyên rất thích chụp ảnh. Anh là
một tay máy
nghiệp dư nhưng trang bị
hẳn cho mình
một máy ảnh
chuyên nghiệp, hiện đại, với
nhiều đồ phụ tùng lỉnh
kỉnh chứa đầy một ba
lô chuyên dụng mà lúc
nào anh cũng
mang theo người. Anh thường mặc quần jean đen,
áo khoác màu đen và
đội chiếc mũ tai bèo Thủy
Quân Lục Chiến anh vẫn còn
giữ được, trông rất bụi.
Đơn Dương cũng mặc jean, kể cả
áo khoác, màu xanh jean truyền
thống. Hòa Bình với cặp kính
đen đeo vào
trông rất oai phong. Trung Dũng có mái tóc
muối tiêu uốn lượn bồng
bềnh. Bốn chàng “4 chữ” (TQLC) xem ra
khá phong trần và có
lẽ ngày xưa
đều thuộc loại hào hoa
phong nhã trong mắt các
“em gái hậu
phương”.
Mọi người đều thừa nhận
Đà Lạt tuy
có nhiều thay đổi, vẫn
còn là một
thành phố tương đối bình
yên nhất hiện nay. Đối với
những người đã có ấn
tượng và tình cảm đẹp
với Đà Lạt
từ nhiều năm trước, nhất
là trước năm 1975, vẫn thường
thất vọng khi trở lại
Đà Lạt ngày
hôm nay. Đường sá, nhà cửa,
phố xá được
mở rộng, xây dựng nhiều
nhưng xô bồ đã làm
mất đi nét
lãng mạn, trữ tình và
tĩnh mịch của thành phố
ngàn thông ngày nào. Tuy nhiên,
cuộc sống phải đổi thay
và đi tới
không ngừng, nhất là với
số dân từ
nhiều nơi mới nhập cư
đông đảo, kinh tế thị
trường tác động dữ dội,
làm sao có
thể không thay đổi. Vấn
đề là trình
độ, nhận thức của những
người quản lý chưa đủ
tầm để quản
lý đô thị
trên đà phát
triển nhưng vẫn giữ được
bản sắc của
thành phố. Đây là vấn
đề không riêng của Đà
Lạt mà của
mọi nơi trên
cả nước, đặc biệt đối
với những thành phố cổ
có nhiều bản sắc văn
hóa đặc trưng
truyền thống.
Chúng tôi cũng đi chơi
Thung Lũng Vàng, một khu du lịch
mới được khai thác trên
đường đi Suối Vàng. Dankia-Suối
Vàng là vùng
đồi núi ở phía tây bắc
thành phố, cách khoảng 20 cây số, nơi
ngày xưa Yersin đã từng
có dự định
xây dựng khu nghỉ dưỡng
khi mới phát
hiện ra Đà
Lạt. Đây là vùng đồi
núi còn tương
đối giữ được
nét tự nhiên
hoang dã. Một số công
ty nước ngoài đã có dự
định đầu tư lớn, xây
dựng hẳn một thành phố
nghỉ dưỡng ở đây, một Đà
Lạt 2, nhưng chưa thực hiện
được. Hiện tại mới có
một khu trồng
hoa của tư
nhân và Thung Lũng Vàng do Công ty Cấp Nước thực
hiện.
Công
ty này quản lý Nhà Máy
Nước Suối Vàng, nhà máy
được Đan Mạch tài trợ,
cấp nước cho thành phố,
trụ sở đóng
ngay bên cạnh hồ Suối
Vàng, nên có điều kiện
xây dựng khu du lịch Thung Lũng Vàng. Hiện
nay ở bất cứ đâu, các khu
du lịch cũng xây dựng các
bồn hoa, cây cảnh, hồ
suối nhân tạo… nhưng Thung Lũng Vàng có
ưu điểm là
nằm trên một vùng đồi
núi rộng, cách xa thành phố
ồn ào, với
hồ suối tự
nhiên, việc xây dựng biết
dựa vào thiên
nhiên nên khung cảnh tạo
được cảm giác yên bình,
thư giãn cho du khách. Khai thác thiên nhiên
nhưng vẫn giữ được thân
thiện với môi trường là
vấn đề lớn
đối với những
quốc gia đang phát triển
nhưng những người lãnh đạo
và cả nhân
dân còn thiếu
nhận thức và trình độ,
cũng là vấn
đề Việt Nam đang phải đương đầu.
Chỉ chạy theo nhu cầu
bức xúc của
cuộc sống và lợi nhuận
đã để lại
những di hại trước mắt và
lâu dài không
sao bù đắp.
Đà Lạt có nhiều khu
du lịch “trời cho” với cảnh
quan tuyệt đẹp như Thung Lũng
Tình Yêu, Thác Prenn, Thác
Datanla, Hồ Than Thở, Suối Cam Ly, Đồi Mộng Mơ,
Núi Langbian… với những huyền
thoại và sự vang danh trong
quá khứ, mới nghe tên,
du khách chưa từng đến Đà
Lạt đã thấy
hấp dẫn. Tuy nhiên khi đến
nơi, người ta có hài lòng
và muốn trở
lại lần nữa
không lại là chuyện khác.
Điều đó hoàn
toàn không dễ dàng. Xu hướng
ban đầu là “bóc lột thiên
nhiên”, chủ yếu do các cơ
quan nhà nước quản lý,
chỉ rào lại
rồi bán vé
và bán đồ
lưu niệm. Dần dần người ta ý thức hơn, và
cũng do đòi hỏi thực tế
của kinh tế thị trường,
một số nơi
được giao cho tư nhân
đầu tư tôn
tạo, khai thác. Tuy nhiên còn xa mới đạt
đến sự hoàn
chỉnh. Những công trình xây
dựng mới, nhất là bằng
bê tông cốt
sắt, bị lạm
dụng và “chỏi” với cảnh
quan thiên nhiên nhiều khi
đã làm hại
đến thắng cảnh. Những người
đầu tư có
vốn, nhưng cần hơn, phải
có đầu óc
và trình độ thẩm mỹ
cao, với sự giúp sức
của các chuyên
gia trong lĩnh vực này,
chứ không phải cứ quăng
tiền ra là
được.
Điều đáng buồn nhất ở Đà
Lạt là chuyện
sân golf-Đồi Cù. Nét độc
đáo nhất của thành phố
Đà Lạt là
Hồ Xuân Hương và Đồi Cù. Nơi
nào có hồ
và đồi thông,
không phải một mà đến
ba ngọn đồi
kế tiếp nhau
với rừng thông vi vu, nằm ngay chính giữa
trung tâm thành phố? Hồ
và đồi thông
làm cho thành
phố dịu lại,
lao xao, xanh mướt đượm
nét trữ tình
lãng mạn. Từ chợ hay khu
phố Hòa Bình, chỉ cần đi
bộ năm, mười
phút là khách
đã có thể
đến ngồi bên bờ cỏ
ven hồ ngắm
sóng nước hay lang thang dưới rặng thông
ngập tràn nắng gió. Trước
đây cư dân
thành phố hay khách đến Đà
Lạt đều có
những kỷ niệm êm đềm
về ngọn đồi
thơ mộng này thuở còn
bé dại, lúc
đang say đắm trong cuộc tình
hay những lúc nhàn du trên thảm
cỏ xanh mượt
pha màu tím
biếc với những ngọn cỏ
may nghịch ngợm bám vào gấu
quần theo về đến tận
nhà. Ngày hôm nay, điều đó
đã trở nên
xa vời như ảo mộng.
15
năm trước đây, đúng vào
dịp kỷ niệm
100 năm thành phố Đà Lạt,
chính quyền đã cho một
tập đoàn kinh tế nước
ngoài thuê Đồi Cù 20 năm
để làm sân
golf hiện đại theo tiêu chuẩn
quốc tế (sau này kéo
dài thời hạn thuê thành
50 năm, nhưng dân Đà Lạt
thì gọi là
đem bán “của hương hỏa”).
Lúc đó nhân
dân, trí thức Đà Lạt
và báo chí
nhiều nơi phản đối kịch
liệt, nhưng những người cầm
quyền đã bất chấp tất
cả. Họ chỉ
biết lợi nhuận, và dân
cũng không biết lợi nhuận
này vào đâu.
Những người chủ sân golf mới
đã đổ vào
rất nhiều tiền bạc để
làm lại Đồi
Cù, trồng cỏ mới, đào
thêm hồ, quy hoạch lại
rừng thông và nhất là
rào kín chung
quanh sân golf. So với trước, sân
golf bây giờ sạch sẽ, mượt
mà, sang trọng hơn và cũng
giả tạo hơn
nhưng đã khuất sau hàng
rào cao cây
phủ. Đó là
một thiên đường đã mất
của nhiều người, trở thành
mảnh thiên đường riêng của
những những ông chủ lắm
tiền nhiều của nước ngoài,
một số tư
bản đỏ trong
nước và những
quan chức có đặc quyền.
Xu
hướng hiện nay của thế giới
là đưa các
sân golf càng xa thành phố càng
tốt. Vì sân
golf nhìn đẹp đẽ nhưng công
việc duy trì thảm cỏ
gây ô nhiễm môi trường và
độc hại ghê
gớm bởi các
loại phân bón và thuốc
trừ sâu bệnh.
Hồ Xuân Hương Đà Lạt có dạo
cũng đã “lãnh đủ” hậu
quả của việc
làm sân golf với đất bồi
lắng và các
loại tảo độc xuất hiện.
Về lâu dài,
tác hại còn
ghê gớm. Xa xa chung quanh
thành phố còn có vô
số đồi, thung
lũng có thể
làm sân golf, cớ gì phải
tước đoạt một tài sản
vô giá này
của nhân dân để trao
vào tay những
“ông chủ ngoại quốc” và
để lại bao nhiêu di hại?!
Thảm cỏ rộng lớn nhất dưới
rừng thông, công viên tự
nhiên lớn nhất của Đà Lạt
đã không còn là của
mọi người, bây giờ chỉ
có những rẻo cỏ nho
nhỏ quanh hồ Xuân Hương cho những ai muốn ngồi
trên một bãi cỏ. Trong thời
hiện đại này mà tất
cả các thành
phố đều bê
tông hóa, nhựa hóa, việc
ngồi trên một bãi cỏ,
dưới một tàng cây chính
là niềm hạnh
phúc mà tiền
bạc, hàng hóa tiện nghi
sang trọng không thể so sánh được.
Công bằng mà nói,
hiện nay Hồ Xuân Hương đã được chỉnh
trang khá chu đáo. Nạo vét,
xây bờ kè
những nơi cần thiết, trồng
thêm cây, sửa lại đường
và nhất là
làm mới, lát gạch men bờ
lề ven hồ
để khách có thể đi
lại thoải mái. Buổi sáng
và chiều, con đường chung quanh
hồ, con đường đẹp và ít
xe cộ nhất
của thành phố là nơi
nhiều người đi dạo, tập
thể dục, đi xe đạp
đôi, tạo nên một khung
cảnh sống động nhưng cũng
không làm mất đi vẻ
yên tĩnh của hồ vì
hồ khá dài
và rộng, chu vi đến hơn 5 cây
số.
Dù sao đi nữa, các bạn
của tôi cũng
khá hài lòng
về Đà Lạt,
nơi đã cho
họ cảm giác
êm đềm, nhất
là lúc đi
dạo trên những con đường dốc mù sương
vào sáng sớm, đêm khuya
hay ngồi quán café Thủy Tạ nhìn
ra mặt hồ
gợn sóng với ngọn tháp
chuông độc đáo của trường
Yersin xa xa ẩn hiện trong
rừng thông.
Nhà hàng Thủy Tạ là nhà
hàng độc đáo và mang
nét đặc trưng
nhất của Đà Lạt, được
xây dựng từ thời Pháp. Công trình vươn ra
hồ từ một
bán đảo nhỏ,
hầu như không
có tường, chỉ có những
khung sườn bê tông được
lắp kính rất tao nhã.
Phía ngoài còn có ban công
rộng không mái che có
thể ngồi khi trời không
mưa, có cả
cầu nhảy (cho những người
thích bơi lội của câu
lạc bộ thể
thao ngày xưa). Ngồi uống
café ở đây có thể ngắm hồ
gợn sóng từ xa, chiêm ngưỡng
Đồi Cù xanh
mướt thấp thoáng bên kia bờ, thấy một
góc thành phố, với tầm
nhìn rộng thoáng, lại khá
yên tĩnh vì cách đường
khá xa. Điều hơi đáng tiếc
là ở đây giá cả hơi
đắt, thức ăn không được
ngon lắm nên hầu như
chỉ có khách
du lịch vào, còn cư dân
bản địa hiếm
người lui tới.
Sau hai ngày thăm
thú Đà Lạt,
trước khi rời đi Nha
Trang, tôi hỏi các bạn điều
gì ấn tượng
nhất về Đà
Lạt, điều ngạc nhiên là
có mấy bạn
nói đó là
ngôi nhà và khu vườn
“động hoa vàng” của chúng
tôi. Khu vườn này chúng tôi
mua từ 20 năm trước, ở một
nơi hơi hẻo
lánh, nằm dưới thung lũng
và lúc đó
chẳng có mấy giá trị.
Căn nhà gỗ
cũ kỹ mối
mọt đã hơn
60 năm tuổi, được chủ nhà
xây dựng từ khi mới
đến đây khai
đất làm vườn.
Tôi mua vì
một ý tưởng lãng mạn, mê
mấy ngọn lau phất phơ
bên bờ một
cái giếng thơi nhỏ trong
vườn. Sau hơn 15 năm bị bao vây,
cô lập và
thất nghiệp bất đắc dĩ,
khu vườn này đã cứu
chúng tôi khỏi cảnh khốn
cùng. Với nền kinh tế
thị trường và cơn sốt
nhà đất, chúng tôi đã
bán hơn một
nửa mảnh vườn để giải
quyết nhu cầu của cuộc
sống.
Với hơn 500 mét vuông đất còn
lại, tôi xây ngôi nhà
mới và dỡ
ngôi nhà cũ dựng lại
bên cạnh làm lưu niệm.
BY là người rất yêu hoa
và thích trồng hoa. BY đã
đi sưu tầm
rất nhiều giống hoa vàng
để khu vườn
xứng với tên gọi “động
hoa vàng”, nhất là những
giống hoa đặc trưng của
Đà Lạt: Mimosa, hoa súng vàng,
hoa giấy vàng, hoàng anh,
ngũ sắc vàng,
hài tiên, kim châm…, đặc
biệt là hoa
bướm vàng, một loại hoa
mảnh mai đong đưa trong
gió nhưng sức sống phi thường
mà ngày nay ít người trồng.
Rồi các loại
hoa và cây
cảnh khác, hoa hồng, tỷ
muội, tường vi, huệ tím, cẩm
tú cầu, mai
anh đào, liễu rủ, phượng
hồng, phượng tím, phượng đỏ,
thông, tùng bách tán, tùng
la hán ... Các loại dây leo như
móng rồng, móng cọp, sao
đỏ, xác pháo,
mai tím, thiên lý… Chúng
tôi trồng trên đất chứ
không trồng trong chậu, hơi
lộn xộn nhưng
vì thế lại
có phần hoang
dã, không tỉa tót cầu
kỳ. Riêng mai anh đào
có duyên nợ với chúng
tôi. Loại cây mà các
công ty nhà nước trồng ven
hồ rất khó
sống lại mọc tự nhiên
đầy trong vườn chúng tôi,
do chim mang hạt đến.
Các bạn quen ở nhà
hộp Sài Gòn
nóng bức, thiếu không khí
trong lành, thiếu tầm nhìn,
thích “động hoa vàng” của
chúng tôi cũng phải. Chúng
tôi tự hào
vì đã bỏ
ra rất nhiều
công sức, tự tay mình
trồng, chăm bón để xây
dựng “một cõi đi về”
bình yên êm ả cho riêng
mình sau bao nhiêu sóng gió
và có thể
đón bạn bè
ở một nơi chốn có thể
giúp họ tạm
thời rũ bỏ
những ồn ào, bụi bặm
và cạnh tranh
quyết liệt của cuộc sống
đời thường.
(Trích bút ký
Một chuyến du hành xuyên Việt)
Người ta thường gọi Đà Lạt
là “Thành phố hoa” nhưng thực
ra ấn tượng
đặc trưng đầu tiên của
du khách khi đến Đà Lạt
không phải là hoa, lại
càng không phải là hoa
dã quỳ. Dã
quỳ không chỉ của riêng
Đà Lạt mà
là nét chung
cho cả tây
nguyên. Vào giữa đông, bắt
đầu mùa khô,
đi theo quốc
lộ 20 dọc theo tây nguyên,
ta sẽ thấy sắc hoa quỳ
vàng rực rỡ khắp các
thung lũng, sườn đồi của
Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Pleiku
chói chang trong nắng ấm.
Còn hoa, với phương pháp
trồng cấy và trưng bày
hiện đại, hoa có thể
hiện diện khắp mọi nẻo
đường ở bất kỳ thành phố
nào. Dĩ nhiên
khi được mệnh danh là
“Thành phố hoa”, Đà Lạt phải
có cái gì
hơn hẳn các
thành phố khác về hoa,
nhưng đó là khi người
ta có đủ thời gian để
đi sâu khám
phá.
Dù lên Đà Lạt bằng
đường đèo Prenn hay đèo Dran, du khách sẽ chìm
ngập giữa đồi núi chập
chùng và rừng thông bát
ngát trong một mầu xanh
êm dịu mượt
mà của những
sợi lá kim
vi vu trong gió. Vào đến trong
phố, ta vẫn không xa thông vì phố ở trong
rừng hay rừng đi vào trong
phố. Rồi đi khắp nơi
ta vẫn thấy thông gần gũi,
nhất là bên
những mặt hồ lung linh soi bóng bầu trời
hay chung quanh những công trình
kiến trúc kiểu Pháp còn lại
với dấu vết
thời gian rêu phong.
Bạt ngàn thông nhưng không
hề đơn điệu.
Có thể là
vô vàn hàng
cây thân thẳng tắp song song với cành
lá giao hòa
làm thành mầu xanh êm
dịu của núi
rừng. Có thể là những
cổ thụ riêng
lẻ nằm bên
đường với gốc vững vàng
sù sì thô
nhám, cành uốn lượn vươn
tỏa bóng mát bình an trăm
năm, thách thức thời gian
dâu biển. Có thể là
muôn nghìn búp non thắp nến
trên vạn cành mới đong
đưa trong gió. Có thể
là những cây non tơ xanh
mướt đầy sức sống hình
chóp nhọn tuyệt đẹp hứa
hẹn một mai
đâm thẳng tới trời xanh.
Có thể không
còn là cây
mà trở thành
vô số cảnh
sắc khác biệt mang chứa
mầu sắc, mùi hương, vị
ngọt và rung động của
cảm giác, cảm xúc và
tâm tình của những người
đã một lần
trải qua kỷ niệm dưới bóng
mát chở che
dịu dàng của chỉ một
cành thông hay ngàn thông từ
vạn cổ.
Ấn tượng thông đầu tiên
của Đà Lạt
nhất định phải là trên
những con đường quanh co mềm mại
của đèo Prenn
hướng nam từ Sài Gòn
lên hay đèo Dran hướng đông sau
khi khách từ đồng bằng
ven biển vượt qua đèo Ngọan
Mục. Hai ngọn đèo thông dịu
dàng này là hai lối
vào tuyệt đẹp đưa đến xứ sở giữa chốn
lưng trời lãng đãng sương
mù. Dù là
với những tia nắng óng
vàng xuyên qua tán lá buổi
hừng đông hay sương khói mịt
mờ lúc hòang
hôn, hay ngay cả lúc mưa
gió nhòa nhọet, rừng thông
vẫn cho bạn
cảm giác thật êm đềm,
dịu dàng và mơ mộng
mà có lẽ
không ngọn đèo nào trên
đất nước này có được.
Ấn tượng đó lại càng
mạnh mẽ khi
bạn có thời
gian lang thang trong những cánh rừng
thông ven Thung lũng Tình Yêu,
hồ Tuyền Lâm, hồ Than Thở hay cả vùng Suối
Vàng rộng lớn nguyên sơ.
Ấn tượng đó vẫn không
phai khi bạn ngước mắt
ngắm nhìn những công trình
kiến trúc nổi tiếng của
quá khứ vẫn
còn tồn tại
ẩn hiện dưới
hàng thông hay những cánh rừng
nho nhỏ như
Dinh 1, Dinh 2, Dinh 3, Trường Yersin (nay là Trường Cao Đẳng Sư Phạm), Trường Đại Học Đà Lạt,
Giáo Hòang Học Viện (nay là Trường Đại Học Dân Lập Yersin),
Khách sạn Palace, Nhà hàng Xuân Hương, Dòng Chúa Cứu Thế
(nay là Phân viện Sinh Học VN), nhà thờ Con Gà, nhà
thờ Saint Domaine, Bệnh viện Sohier (nay là nhà nghỉ
Công Đòan), hay khu biệt thự phong
cách Pháp đường Trần Hưng Đạo, đường
Lê Lai, đường Nguyễn Du (nơi
có resort Hòang Anh – Gia
Lai mới xây dựng)…
Bạn đứng đó chiêm ngưỡng
hay nhìn vào những tấm ảnh
và thử tưởng
tượng những công trình kiến
trúc này không có hàng
thông vây phủ sẽ như
thế` nào, có còn giữ
được vẻ đẹp
hút hồn lữ
khách như chúng vốn có?
Hay là sẽ trơ trụi, cộc
cằn, thậm chí trơ trẽn
như một số
công trình mới xây dựng
gần đây dù
theo kiểu cọ nào cũng
chỉ là bê
tông với xi măng, sắt thép
cứng nhắc vô hồn. Ngay cả
nhà Ga Đà Lạt, Cục Bản
Đồ hay Trường Yersin với đường cong
tuyệt mỹ bằng gạch mộc
và tháp chuông
hình cô gái
trùm khăn xám có một
không hai, nổi tiếng là
những công trình kiến trúc
đẹp bậc nhất
Đông Nam Á, nay chỉ còn lại mấy hàng
thông hay mấy cây thưa thớt,
cũng đã giảm
đi sức quyến
rũ mấy phần
so với ngày trước.
Nếu tiếp tục nhớ lại
ngày xưa, ta sẽ còn tiếc
nuối những cánh rừng
thông nho nhỏ trong phố
như bên sườn
đồi đường Bùi Thị Xuân, đường Hải Thượng Lãn Ông, đường
Hà Huy Tập…nay đã bị phá gần
sạch, phố hóa với nhà
cửa lô xô
xanh đỏ trong
cơn sốt chiếm
lĩnh nhà đất của nền
kinh tế thị
trường, chỉ còn lại vài
cây lạc lõng
cô đơn, ta sẽ thấy thông
cần thiết đối với vẻ
đẹp và sức
quyến rũ của thành phố
này như thế
nào. Thôi dù sao quá
khứ đó không
thể sửa chữa.
Chỉ mong sao sự tàn
phá được dừng lại kịp
thời và mãi
mãi để thành
phố này nổi
tiếng là “Thành phố ngàn thông”
trước khi là “Thành phố hoa”
độc nhất vô nhị của
đất nước này, một danh
hiệu có sức
mời gọi mãnh
liệt đối với nhiều lọai
du khách trong và ngòai nước.
Đó cũng là
“thương hiệu”, một cách làm
kinh tế, làm du lịch bằng sức hấp dẫn
của cảnh quan môi
trường chứ không phải chỉ
là nhà hàng
khách sạn, dịch vụ ăn
uống vốn không phải là
thế mạnh của Đà Lạt.
Dưới thông thường là thảm
cỏ. Có thể
là cỏ tự
nhiên lá rộng, cỏ may hay cỏ Nhật, cỏ Mỹ
mới được trồng gần đây
ở các sân golf, khách sạn, công
viên, khu du lịch. Đẹp hoang
dại là cỏ
tự nhiên lá rộng xanh
mướt xen lẫn với cỏ may phớt
tím và lá
thông rụng mầu nâu trải
thảm mượt mà mời gọi
đến mê hồn.
Vô số cư
dân Đà Lạt
và khách du lịch bốn phương
đã có bao nhiêu kỷ niệm
không quên đối với thảm
cỏ tự do của Đồi Cù
Đà Lạt ngày
nào. Đó là
tuổi thơ vô tư chạy
nhảy, lăn tròn, chơi đùa
thỏa thích trên thảm cỏ
bình an dưới cặp mắt hạnh
phúc của bố mẹ. Đó
là tuổi trẻ
trong tay người yêu dạo
chơi hay ngồi bên nhau thì
thầm trên bãi xanh
mượt mà dưới
hàng thông dịu dàng trong
hòang hôn hay đêm trăng mà
khi về lưu
vết chứng nhân vẫn còn
là những bông hoa cỏ
may tinh nghịch ghim vào quần
áo. Đó là
tuổi trung niên và tuổi
già với điếu
thuốc trên môi hay cuốn sách
trong tay, ngồi trên thảm
cỏ, đọc và
tư lự về
thế sự. Đó
là … không thể kể hết
được. Tin chắc rằng nếu phát
động một cuộc thi viết
về kỷ niệm
trên bãi cỏ Đồi Cù,
ta sẽ nhận được hàng
ngàn, hàng vạn bài cảm
động không những từ khắp
mọi miền của đất nước
mà còn từ
khắp nơi trên thế giới.
Phải chăng đây cũng là
một ý tưởng để “tiếp thị”
hình ảnh của Đà Lạt
trong công tác du lịch?
Đồi Cù bây giờ là
sân golf hiện đại. Thông được trồng thêm, cỏ
được trồng lại và chăm
sóc kỹ lưỡng,
xanh hơn, mượt mà hơn,
trông xa như tranh vẽ nhưng
có cảm giác
giả tạo với
“hoa chăm cỏ bón lối
thẳng cây trồng”. Tuy nhiên điều quan trọng
là bãi cỏ
lớn nhất Đà Lạt này
không còn là bãi cỏ
tự do của Đồi Cù năm
xưa mà đã
nằm trong vòng rào chắc
chắn và kín
đáo, đứng ngòai chỉ thấy
thấp thóang. Bãi cỏ lớn
nhất ngay giữa trung tâm
thành phố nhưng chỉ dành
riêng độc quyền cho một
số rất ít
người giàu có đến để
chơi trò thể thao thư
giãn. Điều này ngay từ
đầu khi Đồi
Cù được cho
thuê để làm
sân golf đã bị đông đảo
cư dân Đà
Lạt và nhiều
báo chí trong
nước phản đối nhưng cuối
cùng mọi sự vẫn được
tiến hành. Theo nhiều người đây
là điều cần
phải sửa chữa dù làm
điều đó khá
khó khăn nhưng không thể
không làm được.
Bãi cỏ lớn và đẹp
thứ hai là
bãi cỏ chung
quanh khách sạn Palace, trước đây cũng là
chốn tự do nhưng nay đã trở
thành kín cổng cao tường
với những chiếc ghế gỗ
sơn trắng trơ vơ không
mấy khi có
người ngồi, trông vô cùng
lãng phí. Bãi cỏ của
nhà thờ Con Gà là nơi
khá tự do nhưng quá nhỏ,
mỗi năm vào
dịp lễ Giáng
sinh cỏ đã
bị dày xéo
tan nát và nhà thờ lại
phải tốn nhiều thời gian
chăm sóc trở lại. Những
bãi cỏ mới
ở các khu du lịch, công viên,
khách sạn thường được chăm
chút kỹ nhưng
thường được để bảng “Xin đừng
đi trên cỏ”.
Thật kỳ lạ.
Cỏ không để dẫm lên
thì để làm
gì. Dĩ nhiên
chỉ nên dẫm
lên cỏ với
đôi chân trần để cảm
giác được sự mềm mại,
êm ái của
một tặng vật vô giá
từ thiên nhiên.
Những bãi cỏ dưới các
cánh rừng thông ở hồ Tuyền
Lâm, hồ Than Thở hay Thung lũng Tình Yêu
có vẻ đẹp
thiên nhiên hoang dã tuy phải đi khá
xa và muốn vào phải mua
vé. May ra chỉ còn những
rẻo cỏ quanh
hồ Xuân Hương là nơi mọi người
còn có thể
ngồi ngắm hồ, câu cá.
Lẽ nào nơi
thành phố ngàn thông lại
không có những bãi cỏ
tự do cho trẻ thơ, cho
thanh niên thiếu nữ, cho
người già, cho những người
mơ mộng? Và hồ Xuân Hương cần chi đến những
cây sung, si cổ thụ giả
tạo được bứng gốc, cưa
cành đem ở đâu đâu về
với bao nhiêu tốn kém. Cả
những phiến đá trơ vơ
lạc lõng nữa. Hồ Xuân Hương không phải là
hồ Gươm ngàn
năm tuổi của Hà Nội, cũng
không phải là hồ mới
kiến tạo ở những khu vui
chơi giải trí của Sài
Gòn. Hồ Xuân Hương của Đà Lạt
chỉ cần thông,
liễu rũ, mai anh đào
và thảm cỏ
để làm nên
vẻ đẹp mộc
mạc nhưng quyến rũ rất
riêng của mình như nhan
sắc của một
nàng sơn nữ giữa núi
rừng.
Đó là thông và cỏ?
Còn gió? Gió ở đâu mà
chẳng như nhau. Không phải.
Gió vô hình
nhưng lại có hình tướng,
mầu sắc và
hương vị riêng của không
gian và tâm
tưởng. Chẳng phải là gió
biển vị mặn
phóng khóang và gió sa
mạc khô cháy
hoang vu đó ư? Làm sao gió
có thể vi vu bài tình ca bất
tuyệt khi không đi qua ngàn
vạn lá thông
kim dưới bầu trời xanh
thăm thẳm. Làm sao gió
có thể ve
vuốt dịu dàng khi ta không
nằm trên một bãi cỏ
êm dưới bóng
thông che chở. Làm sao
gió có thể
vào được những khối nhà
bê tông dày
đặc trong những đô thị
nhung nhúc người và xe
cộ nếu không
phải là gió
giả. Vậy thì gió Đà
Lạt ắt phải
có hình hài
và tâm hồn
riêng mà không phải ai cũng
khám phá được. Bạn hãy
đến đây, vào mùa khô,
nằm trên thảm cỏ dưới
rừng thông trong một giờ
cô tịch, bạn sẽ hiểu
thế nào là
gió Đà Lạt.
Đà Lạt là thành phố
ngàn thông, là phố trong
rừng thông. Khi không còn rừng
thông trong phố, Đà Lạt
sẽ không còn là Đà
Lạt hay Đà Lạt như hình
ảnh của một
xứ sở mộng
mơ sẽ chết
vì những đầu óc thực
dụng cùn mằn hẹp hòi
và bàn tay
thô bạo của
những gã phàm phu tục
tử.
Đà Lạt cuối đông 2006
Đan Vy - TDBC
Có nhiều con đường nối liền
rừng và biển
nhưng đây là con đường nối
liền hai thành phố du lịch
nổi tiếng tây nguyên và
miền trung, Đà Lạt và
Nha Trang, vừa mới được mở
ra và chính
thức thông xe. Trước đây
muốn đi từ
Đà Lạt xuống
Nha Trang, ta phải đi qua đèo Prenn
hay đèo Dran, đổ xuống Đơn Dương, lại qua đèo Ngoạn
Mục xuống Phan Rang, từ đó theo
quốc lộ 1 ra Cam Ranh, đến Ngả Ba Thành rồi rẽ về thành
phố biển, tất cả dài
220 cây số. Bây giờ bạn
có thể đi
thẳng từ rừng xuống biển,
chỉ 140 cây số. Buổi sáng
bạn uống café ở Thủy Tạ bên
hồ Xuân Hương se lạnh, buổi trưa bạn
có thể nằm
tắm nắng trên bãi biển
Nha Trang nghe sóng đại dương
vỗ bờ.
“Đi thẳng” chỉ
là một cách
nói thôi nhé. Mà đi
thẳng thì còn gì thú
vị cho một
chuyến du lịch phiêu lưu. Từ
trung tâm thành phố Đà
Lạt, bạn theo con đường đi về hồ
Than Thở, qua xã Thái Phiên là nơi
nổi tiếng trồng rau với
các vườn rau, hoa mượt
mà khoe sắc
rồi cứ thế
theo con đường độc đạo xuyên
rừng đi về
phía đông. Đó chính là
con đường mới mở nối liền
rừng và biển.
Con
đường này do hai tỉnh Lâm Đồng
và Khánh Hòa thi công từ
hai phía và gặp nhau
nơi ranh giới giữa núi
rừng trùng điệp. Phía Lâm Đồng, dù đã
thông xe, vẫn chưa hoàn
chỉnh. Mươi cây số, từng
chặng, vẫn còn những khoảng
đang rải đá hay làm lại
nền đường bị lún, hoặc
mở ra những
đoạn đường mới để tránh
những uốn khúc quanh co đã
làm xong nhưng quá nguy
hiểm. Một cây cầu bắc
qua sông vẫn còn là cầu
tạm. Nhưng bạn cứ yên
chí đi tiếp,
qua khỏi xã Đạ Sa, đường đã
êm mượt và
rộng ra thênh
thang, dĩ nhiên chỉ là thênh
thang giữa núi đồi thôi chứ
không thể so sánh được với
những xa lộ dưới bình nguyên.
Nếu bạn chạy xe máy,
đây là đoạn
đường tuyệt vời khi tay
lái bạn quanh
co liên tục vài chục cây
số trên những
đường cong tuyệt mỹ giữa
rừng thông bạt ngàn hoang
dã. Dù hoang
dã, bạn sẽ
cảm thấy thông bao giờ cũng
dịu dàng chở che với
tiếng gió vi vu qua những tàn lá
kim xanh mướt. Đây chính
là cảm giác
đặc biệt mà bất cứ
du khách nào cũng cảm nhận
được khi đến với Đà
Lạt, thành phố ngàn thông,
nơi rừng vẫn còn lặng
lẽ đi vào
trong phố. Bây giờ bạn
đang chạy xe giữa rừng
đại ngàn, tất cả các
giác quan đều mở rộng
để đón nhận
làn gió, tiếng chim, màu
xanh trùng điệp, mùi hương
núi rừng trong tốc độ
của một cánh
bay giữa những vòng lượn duyên
dáng mượt mà như những
đường cong thiếu nữ. Đâu
phải ai, lúc nào cũng có
thể hưởng cảm giác hạnh
phúc đó.
(Trích bút ký
Phiêu du trên con đường nối liền
rừng và biển)
Từ xưa,
ngoài tên gọi Thành phố Ngàn
thông, Ngàn hoa, Đà Lạt
còn được gọi là Thành phố
Mai anh đào hay Xứ hoa đào.
Tuy nhiên cũng đã từ lâu
Đà Lạt không
còn xứng với tên gọi
đó nữa.
Một thời gian dài, cây
mai anh đào
hầu như vắng
bóng trên thành phố này.
Chỉ còn sót
lại một vài
cội mai già
đây đó còm
cõi không đủ sức nở
hoa. Thật buồn cho những
người còn mơ mộng khi
cất lên tiếng
hát "Ai lên xứ hoa đào"
quyến rũ một thời. Mấy
gốc mai già
bên đường nếu còn cố
ra một vài
cành để đơm
nụ cũng bị
người nào đó còn yêu
hoa đào, chặt mang về
nhà cho riêng
mình. Không ai cần giữ gìn
một vẻ đẹp
tưởng đã sắp đi vào
quên lãng.
Hình như từ năm 1993, lúc
Đà Lạt tổ
chức kỷ niệm
100 năm ngày bác sĩ Yersin
phát hiện ra Đà Lạt,
bắt đầu đặt
lại tên đường
và dựng tượng
Yersin, người ta mới nghĩ đến
chuyện gầy dựng lại xứ
hoa đào. Tuy nhiên công việc
này không mấy kết quả.
Hàng năm, người ta đều tổ
chức trồng cây, trong đó
có mai anh
đào, nhưng nếu không "trồng cây nào
chết cây ấy" thì cũng
chỉ sót lại
vài cây còi
cọc. Mà mai
anh đào không
phải là giống
khó trồng. Đặc biệt đất
của Đà Lạt
rất phù hợp
với giống cây này. Cứ
đi vào các
thung lũng ngay trong thành
phố, các nhà vườn, ta sẽ
thấy lũ chim
đã làm việc
này dễ dàng
như thế nào.
Khi mai anh đào kết trái,
những trái mọng chín nho
nhỏ tím thẫm,
lũ chim tha
đi khắp nơi,
hạt rơi đến
đâu mọc đến
đó. Ấy thế
mà bao nhiêu công sức tiền
bạc đổ ra,
mai anh đào
được trồng trong những lễ
lạc rùm beng
vẫn không sống nổi, kể
cả những cây cổ thụ
người ta mua ở các vườn bứng
mang về.
Nhưng rồi tín hiệu vui
đã đến. Mấy
năm gần đây,
có thể do một cơ chế
làm ăn mới
nào đó, mai
anh đào được
khôi phục, chăm bón, trồng
mới trên một số con đường
bắt đầu có
kết quả và
mọi người đã có thể
từ từ thấy
lại mầu hoa
ngày cũ mỗi
độ đông tàn.
Đến cuối đông đầu xuân
năm nay, Kỷ Sửu 2009, nhất là từ
một tuần sau Tết Nguyên đán cho đến
Nguyên tiêu (rằm tháng giêng), như
một phép lạ, thành phố
bỗng rực lên một mầu
hồng như những ngọn lửa
bập bùng êm dịu từ
muôn vạn cánh hoa bé
nhỏ. Hầu như ai cũng muốn
reo lên "Mai anh đào nở
hoa!". Và mặc nhiên Đà
Lạt lấy lại
được mỹ danh
ngày nào.
…
Mai
anh đào. Chỉ một hai
tuần thôi. Loài hoa nào
mà chẳng chóng tàn nhưng
vẻ đẹp của
sắc hương trời đất vẫn
còn đó, trong
tâm tưởng, trong hoài niệm,
trong sự thánh thiện của
thiên nhiên và hồn người
làm cho thế
giới này bớt u ám và
buồn đau.
(Trích bút ký
Về một xứ
hoa đào)
Đà Lạt thường được gọi là
thành phố ngàn thông, thành
phố ngàn hoa, thành phố
lưng trời nhưng đặc sắc
và biểu trưng
nhất có lẽ
là tên gọi
“thành phố Mai anh đào”. Vì
ngàn thông, ngàn hoa, lưng
trời tuy hiếm nhưng không
phải là duy
nhất. Duy nhất chỉ có một
xứ sở Mai anh đào.
Không phải anh đào Nhật Bản, không
phải đào Hà Nội, không phải
đào Sapa, không phải đào lông
mà là mai
anh đào Đà
lạt. Có lẽ
các nhà thực
vật học, các nhà nghiên
cứu văn hóa,
lịch sử nên
làm một cuộc
nghiên cứu công phu để
làm rõ thêm
tính độc đáo của loại
hoa mai – đào này.
Mỗi năm hoa chỉ nở một
lần, sau khi cây trút
lá. Đóa mai
anh đào năm
cánh bé bỏng,
đơn sơ, màu
hồng phớt tím nhưng khi
hàng ngàn hoa nở rộ,
toàn cây thành một ngọn
lửa bập bùng,
không rừng rực nhưng dịu
dàng, nồng nàn, ấm áp.
Thân cành mai anh đào khi
còn non mảnh mai nhưng khi
già trở thành
cổ thụ cũng
sần sùi, tạo dáng vững
chãi và có
thể cao đến
mươi thước.
Trước đây mai anh đào thường
nở vào trước
hay sau Noel nhưng những năm gần
đây do thời tiết thay đổi,
thời gian nở chậm dần
và tết năm
Kỷ Sửu 2009, lần đầu tiên mai
anh đào nở
rộ vào đúng
dịp tết, tạo thành một
hiện tượng làm cư dân
thành phố và du khách kinh
ngạc và vui
mừng, báo hiệu sự hồi
sinh của xứ sở mai
anh đào.(*)
Đà Lạt nổi tiếng với muôn
ngàn sắc hoa, được nhiều
người nhắc đến với “mimosa từ đâu em
tới đất này”,
hay “dã quỳ nồng nàn thúc
giục”, các loài lan kiêu
sa vương giả, hay cả cây
phượng tím cổ thụ duy
nhất trước chợ Hòa Bình nở
tím cả một
vùng trời năm xưa (bây
giờ người ta đã nhân được
giống trồng khắp nơi nhưng
không có cây nào có
được tàn cây lớn và
vẻ đẹp lạ
lùng của cây phượng tím
cổ thụ này)… Tuy vậy, có lẽ những
người từng gắn bó sâu
xa hay có “kỷ niệm rưng rưng”
với Đà Lạt,
không ai có thể quên lời
nhắc nhở tha thiết của
nhạc sĩ Hoàng Nguyên năm xưa “ai lên
xứ hoa đào
đừng quên mang về một
cành hoa”.
(Trích bút ký
Xuân về trên xứ sở Mai anh
đào)