Page 38 - gap go tren dat my
P. 38

mặc tự do, có vẻ “bụi bặm”. Chúng tôi ngồi ở cuối phòng. Tôi ngạc
               nhiên thấy sinh viên được điểm danh cẩn thận và nộp bài làm kiểm

               tra lần trước. Liêm đang giảng về lịch sử triết học hiện sinh qua việc
               giới thiệu tư tưởng căn bản của một số triết gia. Anh nói chậm rãi,
               khúc chiết, thỉnh thoảng ghi vài tên và những câu quan trọng lên
               bảng, gọi hỏi vài sinh viên và xen vào những chuyện đùa ngoài lề

               làm cả lớp cười vui vẻ. Có người ghi chép, người xem laptop hay
               trầm ngâm, lơ đãng. Không khí lớp học nghiêm túc nhưng không

               nhàm chán.

               Sau giờ nghỉ giải lao, chúng tôi chuyển sang phòng khác để tôi nói

               chuyện. Liêm kéo hai chiếc bàn ra trước lớp để tôi và anh ngồi đối
               diện với sinh viên và anh tiện phiên dịch cho tôi. Tôi không quen kiểu
               nói một đoạn, đợi phiên dịch rồi nói tiếp vì tư tưởng bị ngắt quãng,

               thiếu hào hứng nhưng dần cũng quen. Tôi có soạn đề cương bài nói
               chuyện nhưng không cần thiết phải nhìn vì ở đây tôi muốn nói theo
               cảm hứng. Tôi nói với sinh viên tôi nhớ lại hơn 40 năm trước, lúc các

               em còn chưa sinh ra, tôi cũng bằng tuổi các em bây giờ và ngồi
               trong giảng đường Đại Học Văn Khoa của thành phố Huế để nghe

               giảng về chủ nghĩa hiện sinh và say mê tìm đọc những tác phẩm
               triết học, văn học của Jean Paul Sartre, Albert Camus, Francoise
               Sagan cũng như sách triết của các giáo sư đại học Việt Nam. Tôi và

               nhiều bạn bè cũng bị tác động, dằn vặt khi tiếp cận những khái niệm
               về phi lý, buồn nôn, vong thân… một cách trừu tượng nhưng trong
               một đất nước đang có chiến tranh, điều mạnh hơn cả đối với chúng

               tôi là tinh thần trách nhiệm và ý thức dấn thân chứ không phải là
               “yêu cuồng sống vội” như có một số người trẻ khác đã lựa chọn.
               Chính ý thức dân tộc, khát vọng tự do, lòng yêu nước của người dân

               một quốc gia nhược tiểu đang bị tàn phá, trong đó có sự can thiệp
               và bom đạn của người Mỹ, đã kết hợp với một khía cạnh tích cực

               của chủ nghĩa hiện sinh đưa chúng tôi đến hành động, vào thời điểm
               đó chính là chống chiến tranh và chống Mỹ. Chúng tôi không suy
               tưởng triết lý mà sống triết lý. Triết lý đi vào máu thịt thành lẽ sống

               cho mãi về sau này. Sau chiến tranh, khi chứng kiến chế độ cộng
               sản phô bày sự chà đạp con người, lẽ sống đó lại một lần nữa thôi
               thúc tôi và một số bạn dấn thân chống lại cái ác, trở thành người




                                                           38
   33   34   35   36   37   38   39   40   41   42   43