Connect with us

Quan điểm

Chữ Quốc ngữ đã cứu tiếng Việt khỏi nạn diệt chủng ngôn ngữ?

Published

on

Giáo sĩ Alexandre de Rhodes và các ấn phẩm chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ảnh: Luật Khoa tổng hợp.

Thảo luận về công – tội của một trong những người định hình nên chữ Quốc ngữ, thứ chữ viết mô tả tượng âm lại tiếng Việt, mà bạn đọc của Luật Khoa đang sử dụng để tiếp nhận và xử lý thông tin của chính bài viết này, đang được đẩy lên cao một cách khá bất ngờ. Alexandre de Rhodes, một giáo sĩ truyền giáo gốc Pháp, người được thừa nhận là đặt những nền móng đầu tiên cho chữ Quốc ngữ, bị một số học giả cho rằng nó chỉ nhằm mục tiêu xấu xa.

Ví dụ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì phân tích rằng quá trình ban đầu của việc tạo ra chữ quốc ngữ không nhằm mục đích phát triển văn minh của dân tộc ta, mà là “một công cụ để thực dân Pháp xâm lăng nước ta”

Hay Tiến sĩ Lê Cung, người đứng đầu nhóm phản đối đặt tên đường Alexandre de Rhodes tại Đà Nẵng, khẳng định “Rhodes là kẻ có tội thì làm sao vinh danh, đặt tên đường được.” 

Vậy thật sự các đế quốc, các thế lực thực dân có cần thiết phải tạo ra một loại ngôn ngữ riêng biệt để đồng hóa và xâm lược hay không? 

Nếu nói đến tầm ảnh hưởng của ngôn ngữ trong quá trình thực dân hóa (colonisation), sẽ là hơi ngờ nghệch nếu cho rằng những đế quốc hùng mạnh lại cần phải tạo ra một loại chữ viết đặc trưng, dựa trên đúng thứ tiếng bản địa để có thể thành công trong việc kiểm soát và đồng hóa văn hóa, tư tưởng của quốc gia bị bảo hộ. 

Bài viết này, dựa trên các thông tin lịch sử về chủ nghĩa thực dân trên thế giới, hy vọng giúp bạn đọc hiểu thêm về tầm ảnh hưởng quan trọng của chữ Quốc ngữ trong việc duy trì văn hóa và tư duy độc lập của người Việt Nam.

Xu hướng diệt chủng ngôn ngữ thời thực dân 

Ngôn ngữ là một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong các nghiên cứu hậu thực dân. Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Chỉ vũ lực không thôi là không đủ để kiểm soát những dân tộc lớn và đông đảo gấp nhiều lần những quốc gia xâm lược và thực dân hóa. Trong quá trình này, hệ thống giáo dục thực dân trở thành một trong những công cụ quan trọng hàng đầu để kiểm soát tư duy và thế giới quan của các dân tộc bị đồng hóa. Song sự kiểm soát quan trọng không nằm ở đường lối hay tư tưởng, không nằm ở giáo trình lịch sử, mà chủ yếu nằm ở chữ viết và ngôn ngữ. 

Như Ngũgĩ Wa Thiong’o, một tác gia lừng danh người Gikuyu đến từ Kenya, vốn nổi tiếng với độc giả thế giới bằng các tác phẩm tiếng Anh của mình, khẳng định: ngôn ngữ và văn hóa là không thể tách rời. Nếu một dân tộc không thể duy trì được ngôn ngữ của mình, văn hóa của họ cũng sẽ tiêu tan. 

Với tư cách là một tác gia, một người có ảnh hưởng, Ngũgĩ tìm đến một biện pháp có phần cực đoan – từ bỏ hoàn toàn tiếng Anh và độc giả quốc tế (một phần nào đó). Trong quyển Decolonising the Mind phát hành năm 1986, lời “chia tay” chính thức của ông với chữ viết và Anh ngữ, ông ngậm ngùi nói rằng ngôn ngữ Anh (cũng như Pháp), được sử dụng và phát triển lấn lướt cả ngôn ngữ bản địa của người châu Phi ngay trên lục địa này trong thời kỳ hiện đại, là một “quả bom văn hóa” nổ chậm, tiếp tục quá trình xóa bỏ những ký ức và văn hóa tiền thuộc địa, từ đó dựng nên một phiên bản mới của chủ nghĩa thuộc địa tồi tệ không kém với chủ nghĩa thực dân trong lịch sử. 

Góc nhìn của Ngũgĩ có vẻ khá một chiều, nhưng không phải là không có cơ sở trong lịch sử. Trong quá trình đào tạo của các trường học thực dân, nhiều tác giả đương đại còn nhớ cách họ bị sỉ nhục, bị cho ở lại lớp, thậm chí bị trừng phạt và bị đánh khi còn dám sử dụng ngôn ngữ bản địa. Chủ nghĩa thượng đẳng ngôn ngữ (linguistic supremacist) chắc chắn đã từng tồn tại, và có lẽ vẫn còn tồn tại đâu đó trên thế giới. Thomas B. Macaulay, một chính trị gia nổi tiếng của Vương quốc Anh sống trong nửa đầu thế kỷ 19, từng thẳng thừng tuyên bố rằng: Không một người đọc sách nào trên thế giới này có thể phủ nhận sự thật rằng chỉ một “giá sách” văn chương và tư liệu theo ngôn ngữ, chữ viết của châu Âu lục địa đã có giá trị tương đương với cả nền văn chương và tư liệu theo ngôn ngữ, chữ viết Ấn Độ hay Ả Rập. 

Tại thời điểm những năm 1830, người viết khó có thể phản biện rằng tuyên bố của Macaulay hoàn toàn sai lầm. Nếu nói đến khoa học tự nhiên, khoa học kinh tế, luật học, xã hội học và các học thuyết chính trị cấp tiến… sự vượt trội của sách vở, chữ viết phương Tây là rất rõ ràng. Song cũng chính vì vậy người ta dễ quên mất rằng ngôn ngữ và chữ viết bản địa đóng vai trò sống còn trong việc duy trì lịch sử và văn hóa của chính dân tộc đó. Đáng tiếc, tại châu Phi, các nhà thực dân người Anh và Pháp đã thành công trong việc cấy ghép niềm tin phương Tây nói trên vào văn hóa bản địa. 

Vốn có dân số phân mảng, thiếu thốn chữ viết, và thường xuyên phải vay mượn từ các nền văn hóa thống trị trong khu vực như chữ Arab, chữ Hy Lạp và chữ người Ai Cập cổ (tình thế rất giống với người Việt Nam vốn phải vay mượn chữ Hán làm công cụ lưu trữ thông tin và trao đổi), chữ viết nói riêng và ngôn ngữ nói chung của người Anh, người Pháp, người Tây Ban Nha, người Bồ Đào Nha nhanh chóng trở thành một lựa chọn thay thế hoàn hảo cho người châu Phi. Điều này càng đúng hơn đối với những vùng tại châu Phi mà chữ viết hầu như không tồn tại. 

Không chỉ vậy, để phát triển và kiếm sống trong mô hình xã hội do giới thực dân xây dựng, những người dân bản địa buộc phải học ngôn ngữ của giới thực dân, có sẵn và dễ tiếp cận, và từ đó lại tiếp dạy cho con của họ thứ ngôn ngữ tiện lợi mới. Trong khi đó, không gian phát triển và tiến hóa của chữ viết và ngôn ngữ bản địa bị chèn ép đến khi hoàn toàn biến mất. 

Đây là quá trình có nhiều tên gọi, đôi khi là “sự thay thế ngôn ngữ” (language displacement), “cái chết ngôn ngữ” (language death), và cũng thường xuyên được gọi là “diệt chủng ngôn ngữ” (linguistic genocide hay linguicide). Và tác động của nó thì còn đến tận ngày nay. 

Có đến 29 quốc gia châu Phi sử dụng tiếng Pháp làm ngôn ngữ – chữ viết chính thức, với một lượng nhỏ người dân còn sử dụng tiếng địa phương (song chữ viết rất ít tồn tại). 

Tại châu Mỹ Latin, gần như toàn bộ các quốc gia tại đây đều sử dụng tiếng và chữ viết Tây Ban Nha (hoặc Bồ Đào Nha – hai quốc gia thực dân lớn mạnh nhất vùng này) làm ngôn ngữ chính thức. Cùng lúc đó, tất cả các ngôn ngữ bản địa khác đang đối mặt với bờ vực tuyệt chủng

Tiếng Anh hiện nay đã là một ngôn ngữ quốc tế được học và phổ biến khắp năm châu nên khó có thể đánh giá tác động của quá trình thực dân hóa. Song nếu nhìn vào các cựu thuộc địa của vương quốc Anh tại châu Phi, có thể thấy hơn 10 quốc gia công nhận Anh ngữ là ngôn ngữ và chữ viết chính thức của mình, trong khi các ngôn ngữ bản địa khác thường không có hình thái chữ viết bổ trợ và chỉ sử dụng trong giao tiếp miệng của các cộng đồng nhỏ. 

Chữ Quốc ngữ đã cứu Việt Nam khỏi bị đồng hóa ngôn ngữ? 

Người viết không dám bàn đến lợi thế hay lợi ích của hình thái chữ Latin của chữ Quốc ngữ so với loại chữ biểu hình đặc trưng của nhiều quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Nhật Bản. Song xét về mặt lịch sử, cần nhớ rằng cả Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đều không bị đô hộ hoàn toàn, hay bị kiểm soát bởi một bộ máy cầm quyền thực dân phức tạp và hoàn thiện phần nào như tại Việt Nam, mà đặc biệt là miền Nam Việt Nam. Họ có thời gian hoàn thiện ngôn ngữ và chữ viết riêng của mình một cách tương đối độc lập. Vậy nên khó mà có thể so sánh chúng ta với những con rồng, con phụng châu Á này. 

Và chúng ta cũng khác với ngôn ngữ của hai quốc gia Đông Dương còn lại là Cambodia và Lào, vốn đã bị “đồng hóa” và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ ngôn ngữ Ấn Cổ (Pallava script) từ nhiều thế kỷ trước khi bị thực dân Pháp đô hộ. 

Việt Nam, vì vậy, nằm ở một vị thế không khác mấy với các quốc gia tại châu Phi: không có hệ thống chữ viết hoàn chỉnh để biểu âm (hoặc kể cả biểu hình) tiếng nói của mình, trong khi hệ thống chữ viết vay mượn (chữ Hán) lại được học hỏi, áp dụng một cách ngờ vực và nửa mùa. Cần nhớ rằng người Pháp thành công trong việc đồng hóa ngôn ngữ của gần cả một châu lục, vậy nên rào cản duy nhất ngăn Việt Nam rơi vào hoàn cảnh của các quốc gia châu Phi nói trên, theo người viết, chỉ có thể là chữ Quốc ngữ. 

Đúng là người Pháp ban đầu rất sốt sắng trong việc yêu cầu phổ biến và hoàn thiện, áp dụng chữ Quốc ngữ. Nghị định 82 ký ngày 6/4/1878 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký cũng đề ra cái mốc hẹn trong bốn năm (tức năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ: “Kể từ mồng một Tháng Giêng năm 1882 tất cả văn kiện chánh thức, nghị định, quyết định, lịnh, án tòa, chỉ thị… sẽ viết, ký tên và công bố bằng chữ Quốc ngữ; nhân viên nào không thể viết thơ từ bằng chữ Quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm và thăng thưởng trong ngạch phủ, huyện và tổng…”.

Song, điều này chỉ nhằm trước tiên phục vụ cho mục tiêu quản lý và truyền bá văn hóa Pháp mà thôi; và chữ Quốc ngữ hoàn toàn không được thực dân Pháp ủng hộ một cách mạnh mẽ như nhiều sử gia Việt Nam tưởng tượng ra. Trong tài liệu nghiên cứu mang tên Colonialism and Language Policy in Viet Nam của John De Francis, một trong những tác giả người nước ngoài có tiếng nói và kinh nghiệm trong nghiên cứu ngôn ngữ tại Việt Nam, ông khẳng định rằng người Pháp rất hạn chế trong chính sách phổ biến Quốc ngữ, với mục tiêu không hơn 10% người Việt Nam được đào tạo thông thạo Quốc ngữ. 

Nhiều tài liệu Việt Nam đang tưởng tượng nên hình ảnh một thực dân Pháp hùng mạnh dùng Quốc ngữ để đồng hóa người Việt Nam, bắt người Việt Nam quên đi cội nguồn. Trong khi đó, chính bản thân người Pháp cũng rất ngần ngại phổ biến Quốc ngữ ra đại chúng, thứ chữ viết dễ học, dễ viết, phù hợp với người bản địa – thứ hoàn toàn có thể được sử dụng để tập hợp, tuyên truyền và hình thành nên tư tưởng chống lại chính quyền thực dân. 

Tuy nhiên, cho đến khi thực dân Pháp nhận ra điều này, chữ Quốc ngữ đã trở thành một công cụ chính trị hiệu quả của người Việt Nam. Cuối thế kỷ 19, các trí thức Nam Kỳ như cụ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản… trở thành những người đi đầu trong chủ trương truyền bá chữ Quốc ngữ và phát triển tiếng Việt.

Hóa ra, thứ ngôn ngữ “hai mang” mà ban đầu người Pháp nghĩ rằng có bản chất Latin có thể phục vụ cho việc kiểm soát và đồng hóa người Việt này lại mang đến một cơ hội hoàn toàn mới cho người bản địa. Lần đầu tiên trong lịch sử, chúng ta có một thứ chữ viết phổ thông, dễ tiếp cận, biểu âm, và quan trọng hơn là tách biệt hoàn toàn với cả ngôn ngữ Pháp và ngôn ngữ Hán, chỉ dành cho tiếng Việt và người Việt Nam. 

Nhận thấy điều này, trí thức cả nước nhanh chóng ủng hộ Quốc ngữ, kêu gọi mọi người hưởng ứng rộng rãi. Hội Truyền bá Quốc ngữ được hình thành. Các trí thức dẫn đầu phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục thì từng ca ngợi chữ quốc ngữ: 

Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước 
Phải đem ra tính trước dân ta 
Sách các nước, sách Chi Na 
Chữ nào chữ ấy dịch ra cho tường.

Chữ Quốc ngữ, theo đúng lịch sử, đã trở thành phương tiện để người Việt phổ biến, hun đúc lòng yêu nước, tinh thần đòi độc lập. Nó cũng giúp phổ biến và bình dân hóa năng lực yêu nước tại Việt Nam, thứ trước đó chỉ thuộc về giới trí thức biết đủ chữ Nho để dùng. 

***

Mục tiêu của người Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ trong quá trình thực dân hóa nước ta có lẽ không phải là tốt lành gì. Lịch sử và các nhà sử học vẫn còn nhiều điều tranh cãi về vai trò và tư tưởng thực chất của Alexandre de Rhodes. Song điều rõ ràng nhất, là chữ Quốc ngữ – tự thân nó – đã mang đến cho ngôn ngữ Việt Nam thứ chữ viết độc lập, đặc sắc, và hoàn toàn riêng biệt sau hàng thế kỷ vai mượn và phụ thuộc. Nó cũng là rào cản giữa việc thực dân Pháp quyết định có áp dụng tiếng Pháp như là một thứ tiếng phổ thông hay không, như cách họ đã làm với nhiều quốc gia thuộc địa khác của mình. Vì vậy, người viết không quá ngần ngại để ủng hộ quan điểm cho rằng chính Quốc ngữ đã giúp chúng ta thoát khỏi nạn diệt chủng ngôn ngữ hoàn toàn có thể nhìn thấy trước. Xét công và tội, công của chữ Quốc ngữ và người đặt nền móng của nó, có lẽ nhiều hơn.

___

Bạn có đồng ý với quan điểm của tác giả Nguyễn Quốc Tấn Trung? Mọi bài phản biện xin gửi về bbt@luatkhoa.org.

Bạn có biết...

... Luật Khoa là một tạp chí độc lập và phi lợi nhuận. Với mong muốn mang lại trải nghiệm đọc báo tốt nhất cho bạn đọc, chúng tôi không đặt quảng cáo và do đó không có doanh thu. Luật Khoa chi trả mọi chi phí bằng các khoản đóng góp của bạn đọc.

Mỗi ngày, các phóng viên, biên tập viên và cộng tác viên của Luật Khoa đều tận tâm với từng con chữ và từng mối quan tâm của bạn đọc, nhằm mang lại cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ và đa chiều về những vấn đề pháp luật, chính trị.

Nếu tất cả bạn đọc đều đóng góp cho Luật Khoa, dù là 20 nghìn đồng, tờ báo độc lập và khai phóng này của chúng ta sẽ hoạt động hiệu quả và bền vững hơn rất nhiều. Mỗi đồng bạn đóng góp đều giúp cho Việt Nam của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn, và bạn chỉ mất một phút để trở thành nhà tài trợ của Luật Khoa. Xin cảm ơn.





6 Comments

6 Comments

  1. Hạnh Nguyễn

    02/12/2019 at 10:50 am

    Chữ hán và chữ Nho mà dân ta đã dùng – Phải chăng là vay mượn –
    Có người giúp Dân tộc ta có một chữ viết : chữ quóc ngữ – không bị lệ thuộc ai –
    Ấy là điền đáng hoan nghênh -các ông Nguyễn dắc xuân muốn dùng chữ Hán chữ Nho -chắc họ
    muốn lệ thuộc vào người khác (Tàu) – nên không đồng ý công của Ông Alexan de Rhodes .

    • Dương Hội Mỹ

      04/12/2019 at 3:41 pm

      Bác thấy ông NĐX nói muốn dùng chữ Hán… chỗ nào? Nhóm ông ta bác bỏ việc tri ơn, vinh danh de Rhodes trong lịch sử VN nhưng không phủ bác bỏ việc ghi nhận công sức của họ trong lịch sử hình thành chữ quốc ngữ -vốn chỉ là một phần của lịch sử văn hóa VN. Chữ viết chỉ là công cụ truyền tải tiếng nói, không có chữ quốc ngữ thì chữ Nôm hoặc chữ Hán được dùng ít nhiền tương tự Triều tiên, Nhật nhưng tôi nghĩ NĐX vv. thừa biết có nhiều lí do để vẫn dùng và phát huy chữ quốc ngữ. Điều này quá dễ hiểu đối với người có học thì tại sao ta không nghĩ họ cũng nghĩ vậy! Nhưng việc sử dụng và phát huy chữ quốc ngữ và sự ghi nhận công sức de Rodes vv. cũng không có nghĩa xem họ là “đại ân nhân của dân tộc Việt Nam”! Một đám người lạ vào vườn nhà tôi (không phép), dùng vật liệu và đất đai của tôi trồng nên một cây trái mục đích để … sinh con đẻ cái cho nhiều. Sau đó tôi thấy cái quả đó cực kì ngon ngọt nên cũng tận dụng, ghi nhận công lao của của người trồng nhưng hoàn toàn không có lí do gì để quên là nó được tạo ra do một sự ép duyên, và không có lí do gì để phải trả lại -một suy nghĩ lạ lùng mà nhiều người cho thấy!- vì cái quả ngọt đó làm nên từ nguyên vậy liệu của tôi, trên đất của tôi mà!

  2. Thersa Nguyen

    03/12/2019 at 7:46 pm

    Cứ nghĩ đến trường hợp các ngôn ngữ có chữ viết chịu ảnh hưởng tiếng Phạn (Thái lan, Lào, Cambuchia vv.), nghĩ đến việc người Tày, Nùng ở Việt Nam có thể hiểu người Thái lan nói gì…. thì hiểu ngay giá trị bài viết của tác giả nằm ở đâu!

  3. Long Kim

    04/12/2019 at 11:53 am

    Thật là một nhận định vô cùng chủ quan và thiển cận khi nói: “Mục tiêu của người Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ trong quá trình thực dân hóa nước ta…” bởi vì từng tớ học trường Quốc Học Huế và tài liệu lịch sử của trường tớ có trưng bày những chương trình học trong quá khứ thì môn Tiếng Việt chỉ là 1 môn phụ trong khi toàn bộ chương trình dạy và học đều bằng tiếng Pháp đó nha! Người Pháp không cần cái chữ Quốc Ngữ ấy trong quá trình thực dân hóa nước Việt đâu!

  4. ẩn danh

    12/12/2019 at 3:23 pm

    Tư tưởng BẢO HOÀNG HƠN VUA, nói trắng ra là NÔ LỆ ăn sâu vào tiềm thức?
    + Thời bấy giờ, nước (quốc gia) là của một cá nhân hoặc gia tộc nào đó. Tất tần tật mọi thứ trong vùng đó là thuộc về họ, bao gồm cả người dân. Trái ý vua thì có thể bị giết đến cả 3 họ. Đứng trên góc nhìn của đức Vua thì bài viết có phần khách quan, theo hướng không bảo vệ quyền lợi bằng mọi giá.
    + Thời nay, phần đông nước (quốc gia) vẫn là của một cá nhân-gia tộc hoặc nhóm cá nhân nào đó. Ở những xứ sở này dân, tư hữu phần đất do tổ tiên khai hoang hoặc mua lại thì hiện thực chưa hay chỉ là trên giấy?
    + Xét trên quan điểm tư hữu, quốc gia là tư hữu của một cộng đồng, bao gồm tư hữu riêng của mỗi cá nhân thuộc cộng đồng đó & tư hữu chung của mọi cá nhân cộng đồng thì công tư cần phân minh. Trong đó phần CÔNG, tỷ lệ đóng góp của mỗi cá nhân là như nhau và bằng 1/tổng người trưởng thành.
    + Về ơn & không ơn. Mọi giá trị ta thừa hưởng từ người khác mà không trả gì cho họ thì nên mang ơn. Đó là về phía ta, còn họ có cần ơn của ta không thì xin thưa là họ chẳng cần vì phần lớn họ chết rồi, muốn không ơn thì trả tiền cho con cháu họ hoặc đại diện của họ & làm việc này thì có lẽ phải thương lượng vì việc định giá phần phải trả là quá khó nếu sòng phẳng kiểu hai bên tự nguyện ưng thuận.
    + Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp & lưu trữ giữa người với nhau, LƯU TRỮ là nền cho kế thừa cái hữu ích & tránh lặp lại sai lầm. Cụ thể
    – Về cá nhân: mỗi cá nhân CÓ QUYỀN CHỌN NGÔN NGỮ mà họ muốn & không nhất thiết phải KÝ ÂM ngôn ngữ mà ta gọi là QUỐC NGỮ. Có thể chọn cách làm của BÙI HIỀN (cải sửa trên nền cũ) hoặc tạo ra một ký âm hoàn toàn mới.
    – Về quốc gia: Các cá nhân có thể tự đề xướng ký âm mới & mang ra biểu quyết nếu muốn. Còn nguyên tắc chấp thuận là số đông (quá bán) hay một nguyên tắc khác là do cộng đồng tự quyết định với nhau. Tiêu chuẩn kép kiểu bài ngoại nhưng tự bản thân lại không chịu tạo ra sản phẩm riêng cho mình thì … à mà thôi.

    Xét cho cùng, mọi sản phẩm hữu dụng cá nhân đang sử dụng đều là của người khác nếu đó không phải là sáng tạo từ chính bản thân. Còn dưới góc nhìn lợi ích, phe nhóm,… thì đúng sai phụ thuộc vào tiêu chuẩn định hình cho phán đoán, thế thôi.

  5. Tai Tran

    25/12/2019 at 11:51 am

    Gần đây tôi thấy ở VN tranh luận sôi động về việc đặt tên đường ở Đà Nẳng lấy tên vị giáo sỉ Alexandre de Rhodes, một giáo sĩ truyền giáo người Pháp, là một trong những người đặt nền móng đầu tiên cho Chữ Quốc ngữ. Một số người có đầu óc thiển cận , có định kiến sai lầm, trong đó có Nguyễn Đắc Xuân xưng danh la nhà nghiên cứu thì cho rằng:” chữ quốc ngữ không nhằm mục đích phát triển văn minh của dân tộc ta, mà là một công cụ để thực dân Pháp xâm lăng nước ta”. Còn TS (Đông Lào=nội địa) Lê Cung, người đứng đầu nhóm phản đối đặt tên đường Alexandre de Rhodes tại Đà Nẵng nói “ Alexandre de Rhodes là kẻ có tội thì làm sao vinh danh, đặt tên đường được.” Hai tên nầy mở miệng nói ra là người dân biết ngay ở ” lò nhuộm đỏ”.
    Bọn họ nên phân biệt rõ ràng việc truyền bá tôn giáo và chính sách thực dân chiếm thuộc địa hoàn toàn khác nhau. Nhờ Alexandre de Rhodes và các nhà truyền giáo khác mà chúng ta có được một hệ thống Chữ Quốc Ngữ tân tiến, tiện lợi, dễ dàng học chớ không như chữ Hán hay chữ Nôm.Sáng tạo ra Chữ Quốc Ngữ , hệ thống chữ viết dựa theo âm điệu của người Việt nói là một điều khó khăn và đáng trân trọng vì Anh, Pháp, Bồ đào Nha, Tây Ba Nha chiếm thuộc địa, họ có cần sáng tạo ra một ngôn ngữ đâu?
    Đứng về phương diện Ngôn ngữ học( linguistics) mà nhận xét, chúng ta mới thấy hãnh diện về những đặc thù của Chữ Quốc Ngữ( tôi chỉ đề cặp đế phần Morphology)
    Phormology= Ngữ âm
    Tiếng Việt là một ngôn ngữ thanh điệu( tonage language) Có 3 âm vị ( phonemes): 1-Thanh điêu( lexical tones) 2- phụ âm (consonants) 3- nguyên âm(vowels)
    Trong tiếng Việt, thanh điệu đó làm thay đổi nghĩa của một chữ. Tiếng Anh chỉ có phụ âm và nguyên âm không có cung thanh điệu như tiếng Việt (huyền, sắc, hỏi, ngã v.v…).
    Ex: không dấu: ma= ghost, thêm dấu sắc đọc lên giọng đổi nghĩa chữ ma thanh má= mom. Các thanh điệu (tones) kết hợp để tạo thành vần( syllables ) Đây là nét đặc thù của tiếng Việt nói chung và Chữ Quốc Ngữ nói riêng mà chúng ta phải hãnh diện vì tiếng Anh không có.
    GS Nam Kym, Ph.D in linguistics, Australia.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Bài đọc nhiều